Thứ Tư, 26 tháng 5, 2021

TÂM BIẾT CẢNH

 

 

TÂM

BIẾT

CẢNH

(TÂM VÔ VI BIẾT CẢNH HỮU VI)

]

Minh Tuệ Đỗ Minh

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

TÂM VÀ CẢNH TRONG KINH TẠNG PALI VÀ VI DIỆU PHÁP

Tựa đề của bài viết này có nguồn gốc từ định nghĩa về Tâm trong môn Vi Diệu Pháp.

Trước tiên chúng tôi xin mở đầu bằng 4 câu kinh Pháp Cú. Hai câu đầu tiên về ‘pháp sinh diệt’ và ‘pháp bất tử’:

Tốt hơn sống một ngày

Thấy được pháp sinh diệt

Hơn sống một trăm năm

Không thấy pháp sinh diệt (Pháp Cú 113)

Tốt hơn sống một ngày

Thấy được pháp bất tử

Hơn sống một trăm năm

Không thấy pháp bất tử (Pháp Cú 114)

Pháp sinh diệt thì hầu như ai cũng có thể thấy được nhưng thấy và không đồng hóa mình với chúng thì đó mới là cái thấy của một người thực sự có trí tuệ.

Pháp bất tử trong câu 114 thì có vẻ khó hơn, vượt ngoài khả năng hiểu biết của nhiều người. ‘Bất tử’ nghĩa là ‘không chết’, ‘không diệt’, sở dĩ không diệt là bởi vì những pháp ấy ‘không sanh’, hay ‘vô sanh’, còn gọi là ‘pháp vô sanh bất tử’ hay đơn giản hơn là ‘pháp không sinh không diệt’.

Ở đây, qua lời Phật thì chúng ta thấy rõ là cả hai pháp này, sinh diệt và bất tử, đều có sẵn trong mỗi con người chúng ta. Thế thì cái gì được gọi là “pháp sinh diệt’, cái gì là ‘pháp bất tử’?

Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này ở phần sau khi nói về Tâm và Cảnh.

Bây giờ đến hai câu kinh Pháp Cú tiếp theo là 11 và 12 về ‘pháp thật’ và ‘pháp giả’:

“Chân thật tưởng không chân

Không chân tưởng chân thật

Không chứng được chân thật

Do tà tư tà hạnh” (Pháp Cú 11)

Chân thật biết chân thật

Không chân biết không chân

Chúng chứng được chân thật

Do chánh tư chánh hạnh” (Pháp Cú 12)

Và tư bốn câu kinh ngắn gọn, cô đọng này chúng ta sẽ rất dễ dàng nhận ra ‘pháp sinh diệt đồng nghĩa với ‘pháp không chân’ hay ‘pháp giả’; và “pháp bất tử’ đồng nghĩa với ‘pháp chân thật’ hay ‘pháp thật’.

Xin diễn lại hai câu 11 và 12 như sau:

“Pháp giả biết là giả Pháp thật biết là thật

Chúng chứng được pháp thật Do thấy đúng hành đúng”

“ Pháp giả tưởng là thật Pháp thật thì không biết

Không chứng được pháp thật Do thấy sai hành sai”

Như vậy chúng ta vừa bàn sơ qua về pháp sinh diệt hay pháp giả và pháp không sinh không diệt hay pháp thật.

Hai thực tại này, nếu dùng thuật ngữ khái quát hơn, thì đó chính là ‘pháp hữu vi’ và ‘pháp vô vi’ (sankhata dhamma và asankhata dhamma).

Trong kinh Phật có một lời kinh mà chúng tôi vẫn thường nhắc đi nhắc lại là “Người có trí tuệ phải là người thấy được cả hai pháp vô vi và pháp hữu vi” (Kinh Trung Bộ 140) để nhấn mạnh về tầm quan trọng của cái nhìn toàn diện cần phải có này.

Pháp hữu vi là pháp điều kiện, do duyên hợp nên sinh diệt, biến hoại, vô thường. Pháp vô vi là pháp không điều kiện, không do duyên hợp nên không sinh không diệt, thường hằng, bất tử.

Bây giờ chúng ta đề cập đến chuyện Tâm và Cảnh. Trong môn học Vi Diệu Pháp có một định nghĩa rất hay về Tâm như sau: “Tâm là sự nhận biết” (Cittananmattam Cittam) hay “Tâm là sự biết cảnh” (Arammanan Cinteti Cittam).

Như vậy, qua định nghĩa này, chúng ta thấy rõ ràng là có 2 phần: Tâm và Cảnh: Tâm nhận biết và Cảnh được nhận biết, hay Chủ thể và khách thể.

Cảnh là những gì mà Tâm có thể quan sát được, nhận biết được. Ngũ uẩn hay 12 xứ, 18 giới . . . nói chúng là pháp hữu vi đều được gọi là cảnh.

Bây giờ chúng ta đi sâu hơn một chút vào phần căn bản của môn Vi Diệu Pháp. Xin nói thêm rằng khi bắt đầu học và nghiên cứu môn học này, chúng ta phải thông suốt một điều rất cơ bản là “tất cả các pháp gồm cả hữu vi và vô vi đều có sẵn trong mỗi chúng ta”.

Toàn bộ chi pháp được chia ra gọi là 4 pháp chân đế:

 

1. Tâm vương (citta),

2. Tâm sở (cetasika),

3. Sắc pháp (rupa) và

4. Niết-bàn (Nibbana).

Cụ thể hơn là pháp chân đế hữu vi gồm có: 89 tâm vương, 52 tâm sở và 28 sắc pháp. Còn pháp chân đế vô vi là Niết-bàn.

Từ định nghĩa “Tâm biết cảnh”, chúng ta có thể chia ra làm 2 như thế này:

 

TÂM BIẾT

 

CẢNH

?

1.     Tâm vương

 

2.     Tâm sở

 

3.     Sắc pháp

 

Và nếu Cảnh gồm toàn bộ pháp hữu vi như vậy thì “Tâm Biết là pháp nào? Tâm Biết nằm ở đâu trong bảng nêu?” Chỉ còn lại một pháp duy nhất là chấm vàng lớn nằm phía dưới, bên phải mà ai học môn này cũng đều quen thuộc, đó chính là Pháp Vô Vi Niết Bàn.

Và cũng từ đây, chúng ta có thể khai triển rộng hơn về “Tâm Biết Cảnh” như sau:

Tâm Biết Vô Vi (Niết Bàn)

 

Biết

Cảnh Hữu Vi

Tâm Ngoại Uẩn

Biết

Cảnh Ngũ Uẩn (Danh Sắc)

 

Hay nói theo cách pháp thật, pháp giả hay pháp sinh diệt, pháp bất tử mà chúng ta đã đề cập từ đầu thì “Tâm và Cảnh” sẽ trở thành:

 

Tâm Thật

Biết

Cảnh Giả

 

Tâm Bất tử

Biết

Cảnh Sinh Diệt

 

Đây là chuyện trọng đại trong cả pháp học lẫn pháp hành, nên tuy đây chỉ là một bài viết ngắn, chúng tôi hy vọng cũng đủ để cho chúng ta có được một cái nhìn tổng quát về giáo pháp của Đức Thế Tôn mà ngày nay chúng ta vẫn còn được duyên lành để học hỏi, thực hành. Nhất là với những người hành thiền, chắc chắn con đường thiền tập sẽ tiến bộ nhanh hơn khi hiểu được những tinh hoa này từ Pháp Phật.

Trong kinh nhật tụng có một câu rất hay tóm tắt về vấn đề này Các pháp hữu vi vốn không bền vững, chúng có tánh sanh diệt là thường, vì nhân sanh rồi diệt, diệt rồi sanh, nên thường đem tới sự khổ não, chỉ có Niết Bàn là pháp tịch diệt, dứt khỏi pháp hữu vi ấy được, mới có sự an vui tuyệt đối.”

Và chúng ta thấy rất rõ ràng rằng: muốn đoạn trừ được các pháp hữu vi, chúng ta phải sử dụng pháp Vô Vi Niết Bàn, vốn tịch diệt hay không sinh không diệt vốn đã có sẵn nơi chính mình, chỉ chờ chúng ta có mắt nhận ra.

Và chỉ có pháp vô vi này, chỉ an trú vào Tâm Biết Vô Vi Niết Bàn hay Tánh Biết không sinh không diệt này thì quá trình xả ly các pháp hữu vi mới có thể đi được đúng hướng.

Giờ đây chúng ta sẽ nói đến nghĩa lý của  “ Tâm Biết Cảnh” trong Kinh Đại Niệm Xứ.  

 

TÂM VÀ CẢNH  

TRONG THIỀN TỨ NIỆM XỨ

Chúng ta bắt đầu với câu nhập đề của kinh Niệm Xứ, và cũng là câu kết luận của bài kinh nổi tiếng này:

“Đây là con đường độc nhất đưa đến sự thanh tịnh cho chúng sanh, vượt qua sầu não, đoạn tận khổ ưu, thành tựu chánh lý, chứng ngộ Niết-bàn – đó là Tứ Niệm Xứ”

Nếu chia thành hai phần theo cách Tâm và Cảnh thì ta có thể chia như sau:

1.      TÂM: Thanh Tịnh, Chánh Lý (Chánh Trí), Niết Bàn.

2.      CẢNH: Sầu Não, Khổ Ưu

Hay nhìn xuyên suốt cả bài kinh với “bốn nền tảng” (thân thọ tâm pháp) thì hai phần Tâm và Cảnh được chia thành:

1.      TÂM: Pháp Nhận Biết, Pháp Tuệ Tri

2.      CẢNH: Thân Thọ Tâm Pháp.

Trước khi đi vào sâu hơn về cách chia này, chúng tôi xin trình bày cách hiểu chủ quan về lời kinh nhập đề :

“Đây là con đường độc nhất, là cách độc nhất để giúp chúng sanh nhận ra được cội nguồn thanh tịnh nơi chính mình, thấy ra được bản tâm thanh tịnh vô vi vốn là bản chất chân thật đã có sẵn nơi chính mình. Đó cũng chính là Chân lý, là Sự Thật, là Đạo, là Niết-bàn vốn đã sẵn có nơi mỗi chúng sanh. Phật thuyết kinh này là để giúp chúng ta trực tiếp nhận ra được, thấy ra được cốt tủy ấy. Và từ ánh sáng thanh tịnh của Tánh Biết Vô Vi ấy, chúng ta nhận biết, quan sát sầu não khổ ưu, hay nói chung là tất cả các pháp hữu vi sinh diệt đang xuất hiện trong Tánh Biết đó, để vượt qua chúng, để đoạn tận chúng.

Bản chất của chúng sanh vốn đã thanh tịnh nhưng sự thanh tịnh đó vẫn còn nhiều “bịnh” bám vào nên Cái Biết thanh tịnh ấy cần phải được đánh thức và an trú vào nó để quan sát và buông xả đủ thứ “bịnh” do vô minh, ái dục gây nên. Chỉ có như vậy chúng ta mới có khả năng “không nương tựa, không chấp trước, không bám viu, không đồng hóa vơi bất cứ một pháp hữu vi sinh diệt nào trên tấm thân giả hợp này”.

Trong kinh tạng, Đức Phật nói những lời như “hãy yêu tự ngã”, “bảo vệ chính mình”, y chỉ chính mình”, nương tựa vào hòn đảo hay ngọn đèn nơi chính mình” cũng là muốn chúng ta nhận ra Bản Tâm Thanh Tịnh này.

Trở lại với hai pháp cốt lõi là vô vi và hữu vi, thì hai phần trên trong đoạn kinh mở đầu được phân thế này”

1.      TÂM VÔ VI: Thanh Tịnh – Chánh Lý – Niết Bàn.

2.      CẢNH HỮU VI: Sầu Não – Khổ Ưu.

Hay:

1.      TÂM VÔ VI: Cái Biết, Cái Tuệ Tri.

2.      CẢNH HỮU VI: Thân Thọ Tâm Pháp.

Xin trích thêm một vài ý kinh trong bài:

“Vị ấy quán tánh sinh diệt trên thân / trên thọ / trên tâm / trên pháp . . .”, nếu nhìn sâu, nhìn kỹ chúng ta luôn luôn thấy có hai thực tại cùng hiện hữu song song: phần “quán” và phần “tánh sinh diệt”. Cái gì quán? Là Tâm. Cái gì sinh diệt? Là Cảnh.

Hay:

“Vị ấy không nương tựa, chấp trước bất cứ một vật gì ở trên đời”. Pháp gì ‘không nương tựa, không chấp trước”? Pháp Tâm. Pháp gì là pháp ‘ở trên đời’? Pháp Cảnh.

Và tinh thần cốt lõi của Thiền Quán là gì? Thái độ chân chánh khi hành thiền Vipassana  là gì? Câu trả lời rất rõ ràng là: “an trú vào TÂM Biết Vô Vi và xả ly tất cả các pháp thuộc về CẢNH Hữu Vi Thân Thọ Tâm Pháp”.

(Xem chi tiết hơn về Tâm Biết Vô Vi Không Sinh Không Diệt ở đây:  https://thuvienhoasen.org/a29309/cai-biet-khong-sinh-khong-diet-trong-thien-tu-niem-xu

 

 

 

HƯỚNG VỀ TÂM NGUỒN

Tâm Biết Vô Vi còn được gọi là Tâm Nguồn (Source of Mind). Đức Phật luôn luôn dạy phải “Hướng Về Tâm Nguồn” (yoniso manasikara):

“Ngày nào còn có người biết Hướng Về Tâm Nguồn thì ngày đó Diệu Pháp chưa bị lu mờ, chưa bị biến mất”

Cụm từ Yoniso Manasikara thường được dịch là Như Lý Tác Ý, ở đây chúng tôi dịch lại sát nghĩa là Hướng Về Tâm Nguồn hay Hướng Tâm Về Nguồn (direct the mind towards the source).

(Để hiểu chi tiết hơn về Yoniso Manasikara, đây là link với giải thích đầy đủ mà chúng tôi đã viết https://thuvienhoasen.org/a28437/huong-tam-ve-coi-nguon-vo-tuong-nhu-ly-tac-y-)

TÂM CHÓI SÁNG

Pháp Vô Vi này cũng được Phật thuyết bằng nhiều cách khác nhau, Tâm Chói Sáng là một trong số đó.

Tâm này, này các Tỷ-kheo, là sáng chói, nhưng bị ô nhiễm bởi các cấu uế từ ngoài vào. Kẻ phàm phu ít nghe, không như thật rõ biết tâm ấy. Do vậy, Ta nói rằng tâm kẻ phàm phu ít nghe, không được tu tập.Bậc Thánh đệ tử nghe nhiều, như thật rõ biết tâm ấy. Do vậy, Ta nói rằng tâm bậc Thánh đệ tử nghe nhiều, có được tu tập”.

Phải chăng chỉ có những người một lòng tầm đạo, ít bụi trong mắt, nghe nhiều, khao khát với chân lý mới có thể nhận ra cái “minh tâm” vốn sẵn có này? Tâm Chói Sáng này nằm ngoài tầm với của ‘kẻ phàm phu vô văn’ nên có nhiều người không cảm được Tâm này cũng là chuyện bình thường, không có gì lạ!

Trở lại với nhứng ý mà chúng tôi có đề cập trong phần một về Pháp Thật, Pháp Giả và Phấp Bất Tử, Pháp Sinh Diệt thì câu kinh “Đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh . . .” bao gồm cả hai thực tại,cũng có thể diễn đạt bằng những khái niệm này:

1.      TÂM BIẾT VÔ VI = Thanh Tịnh – Chánh Lý – Niết Bàn = Pháp Thật = Pháp Bất Tử

2.      CẢNH HỮU VI = Sầu Não Khổ Ưu = Pháp Giả = Pháp Sinh Diệt

Và trong định nghĩa “Tâm là Sự Biết Cảnh” (Arammanan Cinteti Cittam), có động từ cinteti, nghĩa thứ nhất là ‘biết’ (know), nghĩa thứ hai là ‘chiếu sáng’ (shine) nên cũng có thể nói rằng “Tâm là Sự Chiếu Sáng Cảnh”. Cho nên người nào ‘thấy biết’ được Tâm là người đó đã thuộc vào ‘hàng ngũ’ Thánh đệ tử theo như lời kinh Phật về Tâm Chói Sáng vừa trích ở trên.

Nguyên lý vô vi – hữu vi cũng chẳng có gì mới lạ đối với Phật Giáo Việt Nam mình nói chung, nhưng chúng ta vẫn phải tiếp tục nói về nó để duy trì và bảo tồn những lời dạy vàng ngọc của Đức Thế Tôn về con đường giải thoát mà chúng ta đang được thừa hưởng đến hôm nay. Vì nếu chỉ biết một thực tại hữu vi thì chắc chắn sẽ “cốt khổ hoàn cốt khổ”, quay mòng mòng trong bàn tay thống trị của Mara, mãi lăn trôi trong tam giới luân hồi.

Tóm lại, tuy chỉ là một bài viết ngắn gọn về một vấn đề lớn, nhưng hy vọng người đọc có thể dễ dàng cảm được tầm quan trọng của hai pháp Vô Vi và Hữu Vi này.

Namo Buddaya.

Kính bút,

Minh Tuệ Đỗ Minh

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào: