Thứ Tư, 7 tháng 10, 2020

LẤY TÂM NHÌN TÂM (I)

 

CT LÕI THIN T NIM X

(The True Essence of Sati Meditation)

 

LẤY

T Â M

NHÌN

T â m

Tập Œ Nguyên Lý

Minh Tuệ Đỗ Minh

2020

 



NGUYÊN LÝ

Hai Thực Tại

VÔ VI - HỮU VI

(Tâm – Cảnh)

 

trong

Kinh Phật

 

¤

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

MỤC LỤC

 

 

 

Trang

 

 

 

Lời nói đầu .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .

 

 

9

 

Biểu đồ .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .

 

13

 

Ẩn dụ trong kinh Phật .  .  .  .  .  .  .  .  .

23

 

Đặc tính     .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .  .

34

 

 

 

 

 

v

 

 

 

 

 

 

 

 

 

LỜI NÓI ĐẦU

Mục đích của Thiền Phật Giáo là Niết-Bàn. Kinh Niệm Xứ là một trong những bản kinh ‘liễu nghĩa’ nhất, thù thắng nhất mà Đức Thế Tôn đã để lại cho chúng ta làm bản đồ  tu tập hướng về mục đích này.  Vì vậy, việc ‘y cứ’ vào những lời vàng trong kinh Sati PatthanaSutta là một điều tối quan trọng đối với những ai thực sự thiết tha với con đường giải thoát.

“Lấy Tâm nhìn tâm” được chọn làm tựa sách này là một câu nói rất quen thuộc với những người đã từng biết đến thiền. Tuy chỉ bốn từ nhưng chứa đựng được cốt tủy tinh hoa của thiền tập.

Hai chữ ‘Tâm” vang lên giống nhau, viết xuống như nhau nhưng ý nghĩa của chúng thì hoàn toàn khác biệt, tạm gọi nôm na là “tâm lớn” và “tâm nhỏ”.

Chính xác hơn hết thì chúng chính là “Tâm Vô Vi” và “Tâm Hữu Vi”. Tâm Vô Vi chỉ có một còn Tâm Hữu Vi thì vạn trạng thiên hình. Tâm Vô Vi thì ai cũng như ai, nhưng Tâm Hữu Vi thì chẳng người nào giống người nào cả.

Có thể nói rằng toàn bộ giáo pháp của Đức Phật chỈ tóm gọn trong hai thuật ngữ này: Vô Vi và Hữu Vi (asankhata dhamma và sankhata dhamma hay unconditioned reality và conditioned reality).

Chỉ khi nào một người hiểu được rốt ráo hai sự thật này thì mới có thể nói rằng người đó là người tỉnh thức, là người biết được mình là ai, mình là gì.. Người tỉnh thức thì mới có khả năng thoát khỏi ảo tưởng vô minh.

Thấy được Vô Vi và Hữu Vi là thấy “tính toàn thể của thực tại” (the totality of reality) hay còn gọi là “thực tại hai tầng” (twofold reality).

Trong mỗi chúng sanh, ai cũng có sẵn hai tầng thực tại này nhưng người nhận ra được Thực Tại Vô Vi này quả thật là rất hiếm.

Nếu có ‘con mắt ít bụi’  nhìn được bản chất “vạn biến” của pháp hữu vi thì không khó để thấy ra “cái tâm bất biến” vô vi. Hay nói cách khác, chỉ khi nhận ra được Tâm Vô Vi thì mới có khả năng thấy được tánh sinh diệt vô thương của các pháp hữu vi.

Như vậy, “Lấy tâm nhìn tâm” đồng nghĩa với “lấy tâm vô vi không sinh không diệt để quan sát những trạng thái tâm sinh diệt hữu vi”.

Tầm quan trọng của Tâm Biết Vô Vi này thể hiện rất rõ trong kinh Niệm Xứ - những từ như ‘Biết’, ‘Tuệ Tri’ đã được Đức Phật lập đi lập lại rất nhiều lần. Trên nền của Tuệ Tri là sự sinh diệt của Thân Thọ Tâm Pháp. Và chúng ta hành thiền quán chính là an trú vào Tâm này, quán sát những gì xảy ra trên thân để “không nương tựa, không chấp trước bất cứ một pháp nào thuộc kinh nghiệm hữu vi.

Khi đã hiểu rõ bản chất vô thường, bất toại nguyện, không phải là tự ngã của tấm thân ngũ uẩn này thì quá trình xả ly, ‘đặt gánh nặng xuống’ chẳng phải sẽ rất đơn giản hay sao?

Nếu nói “Thiền là nghệ thuật phá vỡ sự đồng hóa với bản ngã” (Meditation is the art of breaking the identification with the ego) thì với thanh kiếm của Tâm Biết Vô Vi, tấm thân ngũ uẩn hay cái ta ảo tưởng này sẽ không có khả năng sống sót lâu dài.

Trong tập sách nhỏ này, chúng tôi cố gắng hệ thống lại những hiểu biết căn bản về pháp học, cũng là những nguyên lý nền tảng cho pháp hành,  bằng những biểu đồ cùng những ẩn dụ nói về hai thực tại - Tâm Vô Vi và Cảnh Hữu Vi (hay Thức Hữu Vi). Đồng thời trích dẫn thêm một số kinh Phật, đặc biệt là Kinh Pháp Cú (Dhammapada)  để minh chứng cho những hiểu biết và nguyên lý ấy.

Xin chân thành gởi lời tri ân đến những người bạn thời gian qua đã cùng với chúng tôi học tập những lời Phật dạy, khuyến khích và truyền nhiều cảm hứng cho nhau để món quà Pháp khiêm tốn này có thể ra đời.

Mong cho tất cả chúng ta sớm nhận ra “bản tâm vô vi” hay “bản chất chân thật” nơi chính mình để sống một đời hạnh phúc, trí tuệ và bình an. Đó là cách chúng ta bảo vệ Chánh Pháp thực sự, khi thế gian này vẫn còn rất nhiều người hiểu được những lời vàng của Đức Thế Tôn thì Chánh Pháp vẫn còn sáng mãi.

Kính,

Minh Tuệ Đỗ Minh

Tháng 10 / 2020

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

1.             

BIỂU ĐỒ 

Biểu đồ về hai pháp Vô Vi và Hữu Vi được chia thành 2 cột: cột bên phải là Tâm (vô vi), cột bên trái là Cảnh(hữu vi).

Tâm cũng như Cảnh có nhiều tên gọi khác nhau nhưng những cách gọi đó đều cùng một ý nghĩa. Ví dụ, ta có thể gọi Tâm Vô Vi là Tâm Vô Tướng, Pháp Hiện Tại, Pháp Bất Tử .v..v… còn Tâm Hữu Vi là Pháp Nhất Thiết Tướng, Pháp Sinh Diệt, Pháp Giả .v..v…

Trong những cách gọi tên được liệt kê ở đây, ở cột bên phải về Tâm có hai thuật ngữ có thể sẽ “lạ tai” với nhiều người. Đó là “Tự Ngã” (Atta, Self) và “Chánh Pháp” (Dhamma, Truth).

(Tự ngã)

Trước tiên xin nói về “Tự Ngã”. Khi hỏi “Có Tự Ngã hay không?”, câu trả lời thông thường là “không có Tự Ngã”                                                                                              (anatta). Điều này cũng không sai nhưng chỉ đúng một nửa. Nhưng nếu hỏi “Ngũ uẩn này có phải là Tự Ngã không?” thì trả lời “Ngũ uẩn không phải là Tự Ngã” thì tuyệt đối chính xác.

Hãy cùng đọc lại một câu kinh Pháp Cú xem Đức Phật ngụ ý gì khi khuyên chúng ta “hãy yêu tự ngã” :

 

Nếu biết yêu tự ngã,

Phải khéo bảo vệ mình,

Người trí trong ba canh,

Phải luôn luôn tỉnh thức.

(Pháp Cú 157)

Attanance piyam janna
rakkheyya nam surakkhitam
tinnam annataram yamam
patijaggeyya pandito.

 

Hay:

 

Tự mình y chỉ mình,

Nào có y chỉ khác.

Nhờ khéo điều phục mình,

Ðược y chỉ khó được.

(Pháp Cú 160)

Atta hi attano natho
ko hi natho paro siya
attana hi sudantena
natham labhati dullabham.

 

Cả hai câu đều có “atta”. Như vậy rất dễ dàng thấy ra ý nghĩa của “tự ngã” ở đây là nói đến “Tâm Vô Vi”, để đối lại với “Ngũ uẩn hữu vi”, là “anatta”, không phải là tự ngã.

Trong tạng Kinh, khi đề cập đến “anatta”, “vô ngã” Đức Phật thường giảng rộng là “không phải là ta, không phải của ta, không phải tự ngã của ta” (‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti -  This is not mine, I am not this, this is not my self.’)

Như vậy, “Tự Ngã” khi được Ngài sử dụng trong những kinh trên có phải là muốn nói đến cái “Tâm Biết Vô Vi” hay “bản thể thực sự cuẩ chính mình” hay không? Có phải nó đồng nghĩa với “Chân Ngã”, “Chân Tâm”, “Chân Tánh”, “Tự Tánh” . . . mà chúng ta thường nghe hay không?

Cùng đọc thêm một câu kinh nổi tiếng khác:

"Này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình (atta-dipà viharatha), hãy tự mình y tựa chính mình (attàsaranà) chớ y tựa một cái gì khác. Dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một cái gì khác ...”

(Trường Bộ III) (Tương Ưng V, 170)

Một lần nữa lại thấy “atta”. Và như vậy, ý nghĩa của “atta” như đã trình bày ở trên không còn phải luận bàn gì thêm nữa.

Khi hiểu được ý nghĩa thâm sâu của “atta” như vậy, tâm chúng ta sẽ mở rộng, phóng khoáng hơn rất nhiều, nhất là khi tiếp nhận những lời giảng của các vị đạo sư đương thời. Có nhiều vị thường hay dung “Self” (viết hoa, dich Việt là Ngã, để nói về Bản Tâm). Vì nếu không hiểu đúng, đôi khi chúng ta lại quy chụp cho họ là “tà kiến”, không biết được rằng người thiểu trí chính là ta, nhận định bừa chỉ để lộ ra cái dốt của chính mình.

(Pháp hay Chánh Pháp)

Bây giờ xin nói về “chánh pháp”

”Chánh Pháp” cũng không phải chỉ có một nghĩa theo cách hiểu thông thường là “tam tạng kinh điển”.

Trong câu kinh vừa trích dẫn ở trên:

“Dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một cái gì khác ...”

(Trường Bộ III & Tương Ưng V)

Lúc Đức Thế Tôn giảng kinh này chắc chắn là chưa có “tam tạng”, nên ý nghĩa của nó là gì? Phải chăng là “ngọn đèn”, là “ánh sáng”, là “hòn đảo” của “Tâm Biết Vô Vi” ai ai cũng có? Phải chăng “nương tựa vào Chánh Pháp” là “nương tựa vào ngọn đèn Tâm, là an trú vào Tâm Chói Sáng của chính mình”?

Đó là những lý do để những từ này được xếp trong biểu đồ nơi cột “Tâm Biết Vô Vi”.

Thêm một câu kinh nữa:

Tỷ kheo an trú Pháp,
Mến pháp, suy tư Pháp.
Tâm tư niệm chánh Pháp,
Không rời bỏ chánh Pháp.

(Pháp Cú 364)

Dhammaramo dhammarato
dhammam anuvicintayam
dhammam anussaram bhikkhu
saddhamma na parihayati.

The bhikkhu who abides in the Dhamma, who delights in the Dhamma, who meditates on the Dhamma, and is ever mindful of the Dhamma, does not fall away from the Dhamma.

Chắc chắn lời kinh này Đức Thế Tôn khuyên chúng ta an trú vào chánh niệm, hoan hỷ sống trong thiền, không rời bỏ Tâm Biết Vô Vi Chói Sáng của mình, chứ không phải chỉ là tụng kinh, đọc điển như một số người thường nghĩ.

 

 

 

AWARENESS

KNOWING

 

TÂM

 

MIND

OBJECTS

Tâm

(Cảnh)

 

Unconditioned

 

 

PHÁP

VÔ VI

 

 

Conditioned

 

PHÁP

HỮU VI

Unmanifested / Formless/ Signless

 

PHÁP

VÔ TƯỚNG

 

Manifested/Form/Sign

 

 

PHÁP

HỮU TƯỚNG

 

Uncreated

 

PHÁP

VÔ TÁC

 

 

Created

 

PHÁP

TẠO TÁC

Aggregate-freed

 

NGOẠI UẨN

 

 

 

Aggregates

 

NGŨ UẨN

Timeless / time-freed

 

 

NGOẠI THỜI

 

 

Time

 

 

THỜI GIAN

 

 

 

Presence

 

 

PHÁP HIỆN TẠI

 

Past & future

 

QUÁ KHỨ & TƯƠNG LAI

 

 

Stillness

 

 

PHÁP TĨNH

 

 

Movements

 

 

PHÁP ĐỘNG

 

 

Unborn & Undied

 

PHÁP

KHÔNG SINH

KHÔNG DIỆT

 

Born & Died

 

 

PHÁP

SINH DIỆT

Eternal

 

 

 

PHÁP

BẤT TỬ

 

arising & vanishing /coming & going/ appearing &  disappearing

 

PHÁP

SINH DIỆT

Real / True

 

 

PHÁP THẬT (Chánh Pháp)

 

 

Unreal / Untrue, False

 

 

PHÁP GIẢ

(Phi pháp)

 

Nothing /Nothingness / Emptiness/Voidness

 

PHÁP KHÔNG

(Tánh Không)

 

Things /

Somethingness

 

PHÁP CÓ

True nature

 

BẢN CHẤT

CHÂN THẬT

(Chân Tánh)

 

 

False nature

 

BẢN CHẤT

GIẢ HỢP

(Ảo Tánh/ Huyễn Tánh)

 

 

Egoless self / true self / real self

 

CHÂN NGÃ

(Tự Ngã/Chính Mình)

 

 

Egoic self  /  false self/ illusory self

 

GIẢ NGÃ

(Cái Ta Ảo tưởng/

Bản ngã)

 

 

Who you are / What you are

 

CHÍNH MÌNH

(không là ai/chẳng là gì)

 

Who you are not / What you are not

 

CÁI KHÔNG PHẢI LÀ MÌNH

(là ai đó/là gì đó)

 

 

Knowing

 

 

TÂM BIẾT /

CÁI BIẾT

 

Body Feeling

Mind Phenomena

 

THÂN THỌ

TÂM PHÁP

 

 

The Source

 

 

TÂM NGUỒN

 

 

 

 

Arising from source

 

PHÁP

PHÁT SINH

TỪ NGUỒN

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

2.

TRÍCH DẪN KINH PHẬT

 

TÂM

 

 

Tâm (Cảnh)

 

Unconditioned

 

PHÁP VÔ VI

 

Conditioned

 

PHÁP HỮU VI

 

[Ananda’]“Bạch Thế Tôn, có pháp môn nào khác, là vừa đủ để nói: "Tỷ-kheo thiện xảo về giới?"

[Buddha]“Có, này Ananda. Này Ananda, có hai giới này: hữu vi giới và vô vi giới. Này Ananda, cho đến khi biết được, thấy được hai giới này, cho đến mức độ như vậy, này Ananda, là vừa đủ để nói: "Tỷ-kheo thiện xảo về giới"

(Kinh Đa Giới, Trung Bộ 115)

[Ananda]“Venerable sir, might there be another way in which a bhikkhu can be called skilled in the elements?”

ơBuddha]“There might be, Ananda. There are, Ananda, these are two elements: the conditioned element and the unconditioned element. When he knowa these two elements, a bhikkhu can be called skilled in the elements.”

(Bahudhatuka Sutta 115)

“Hỡi này Bà là môn,

Hãy tinh tấn đoạn dòng,

Từ bỏ các dục lạc,

Biết được hành đoạn diệt,

Người là bậc vô vi.”

(Kinh Pháp Cú 383)

O Brahmana, cut off the stream of craving with diligence, and abandon sense desires. O Brahmana, perceiving the cessation of the conditioned, be an arahat who realizes Nibbana, the Unconditioned.”

(Dhammapada 383)

 

 

TÂM

 

 

Tâm (Cảnh)

 

Unmanifested/Formless/

Signless

 

PHÁP VÔ TƯỚNG

Manifested/Forms/Signs

 

 

PHÁP HỮU TƯỚNG

 

 

 “Có bao nhiêu duyên để chứng nhập vô tướng tâm giải thoát?

“Này Hiền giả, có hai duyên để chứng nhập vô tướng tâm giải thoát: không có tác ý nhất thiết tướng và tác ý vô tướng giới. Này Hiền giả, do hai duyên này mà chứng nhập vô tướng tâm giải thoát.”

(Kinh Phương Quãng, Trung Bộ 43)

SIGN & SIGNLESS

“How many conditions are there for the attainment of the signless deliverance of mind?

Friend, there are two conditions for the attainment of the signless deliverance of mind: non-attention to all signs and attention to the signless elements.”

(Mahavedalla Sutta 43)

 

SỰ NGUY HIỂM CỦA TƯỚNG

Ai sống nhìn tịnh tướng,

Không hộ trì các căn,

Ăn uống thiếu tiết độ,

Biếng nhác, chẳng tinh cần.

Ma uy hiếp kẻ ấy,

Như cây yếu trước gió.

(Pháp Cú 7)

Ai sống quán bất tịnh,

Khéo hộ trì các căn,

ăn uống có tiết độ,

Có lòng tin, tinh cần,

Ma không uy hiếp được,

Như núi đá, trước gió.

(Pháp Cú 8)

He who keeps his mind on pleasant objects, who is uncontrolled in his senses, immoderate in his food, and is lazy and lacking in energy, will certainly be overwhelmed by Mara, just as stormy winds uproot a weak tree.

(Dhammapada 7)

 

He who keeps his mind on the impurities, who is well-controlled in his senses and is full of faith and energy, will certainly be not overwhelmed by Mara, just as stormy winds cannot shake a mountain of rock.

(Dhammapada 8)

 

 

TÂM

 

 

Tâm (Cảnh)

 

Presence

 

PHÁP HIỆN TẠI

Past & Future

PHÁP QUÁ KHỨ TƯƠNG LAI

 

 

Quá khứ không truy tìm

Tương lai không ước vọng.

Quá khứ đã đoạn tận,

Tương lai lại chưa đến,

Chỉ có pháp hiện tại

Tuệ quán chính ở đây.

Không động, không rung chuyển

Biết vậy, nên tu tập,

Hôm nay nhiệt tâm làm,

Ai biết chết ngày mai?

Không ai điều đình được,

Với đại quân thần chết,

Trú như vậy nhiệt tâm,

Đêm ngày không mệt mỏi,

Xứng gọi Nhứt dạ Hiền,

Bậc an tịnh, trầm lặng.

 

(Kinh Nhất Dạ Hiền Giả, Trung Bộ 131)

One would not chase after the past,
nor place expectations on the future.
What is past is left behind.
The future  is as yet unreached.
Whatever quality is present
one clearly sees right there, right there.
Unvanquished, unshaken,
that's how one develops the mind. 

Ardently doing one's duty today,
for -- who knows? – tomorrow death may come.
There is no bargaining with Death and his mighty horde. 

Whoever lives thus ardently,  relentlessly
both day and night,
has truly had an auspicious day:
So says the Peaceful Sage. 

(Majjhima Nikaya 131,

Bhaddekaratta Sutta)

 

 

TÂM

 

Tâm (Cảnh)

Eternal

 

PHÁP BẤT TỬ

Arising/Vanishing

 

SINH DIỆT

 

 

Ai sống một trăm năm,

Không thấy pháp sinh diệt,

Tốt hơn sống một ngày,

Thấy được pháp sinh diệt.”

 (Pháp cú 113)

Yo ca vassasatam jive
apassam udayabbayam1

ekaham jivitam seyyo
passato udayabbayam.

 

Better than a hundred years in the life of a person who does not perceive the arising and the dissolving of the five aggregates, is a day in the life of one who perceives the arising and dissolving of the five aggregates.

(Dhammapada 113)

Ai sống một trăm năm,
Không thấy pháp bất tử,
Tốt hơn sống một ngày,
Thấy được pháp  bất tử.

(Pháp cú 114)

Yo ca vassasatam jive
apassam amatam padam
ekaham jivitam seyyo
passato amatam padam.

Better than a hundred years in the life of a person who does not perceive the Deathless, is a day in the life of one who perceives the Deathless.

(Dhammapada 114)

 

TÂM

 

Tâm (Cảnh)

Real/True

 

PHÁP THẬT

(Chánh Pháp)

Unreal/Untrue/False

 

PHÁP GIẢ

(Phi pháp)

 


THẬT – GIẢ

Không chân, tưởng chân thật,
Chân thật, thấy không chân
Họ không đạt chân thật
Do tà tư tà hạnh

                                                                              (Pháp Cú 11)
"Chân thật, biết chân thật,
Không chân, biết không chân.
Chúng đạt được chân thật,
Do chánh tư, chánh hạnh."
                                                                              (Pháp Cú 12)

They take untruth for truth; they take truth for untruth; such persons can never arrive at the truth, for they hold wrong views.

(Dhammapada 11)

They who know truth in truth, and untruth in untruth, arrive at truth, and follow true desires.

(Dhammapada 12)

 

 

 

TÂM

 

Tâm (Cảnh)

True Self

 

CHÂN NGÃ

(Tự Ngã/Chính mình)

 

Illusory self/False self

 

GIẢ NGÃ

(Cái Ta Ảo Tưởng/Không Phải Tự Ngã)

 

 

 

TỰ NGÃ – KHÔNG PHẢI TỰ NGÃ

Nếu biết yêu tự ngã,

Phải khéo bảo vệ mình,

Người trí trong ba canh,

Phải luôn luôn tỉnh thức.

(Pháp Cú 157)

Attanance piyam janna
rakkheyya nam surakkhitam
tinnam annataram yamam
patijaggeyya pandito.

If one knows that one is dear to oneself, one should protect oneself well. During any of the three watches.  the wise man should be on guard .

Tự mình y chỉ mình,

Nào có y chỉ khác.

Nhờ khéo điều phục mình,

Ðược y chỉ khó được.”

(Pháp Cú 160)

Atta hi attano natho
ko hi natho paro siya
attana hi sudantena
natham labhati dullabham.

 

One indeed is one's own refuge; how can others be a refuge to one? With oneself thoroughly tamed, one can attain a refuge, which is so difficult to attain.

(Dhammapada 160)

 

 

TÂM

 

Tâm (Cảnh)

Nothingness/Emptiness/

Voidness

 

PHÁP KHÔNG

(TÁNH KHÔNG)

 

Thingness/Somethingness

 

 

PHÁP CÓ

 

 

 

KHÔNG TÁNH

 

 “Này Ananda, phàm có những Sa-môn hay Bà-la-môn nào trong quá khứ sau khi chứng đạt, đã an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không tánh (Sunnatam), tất cả các vị ấy sau khi chứng đạt đều chỉ an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không tánh này.

Này Ananda, phàm có những Sa-môn hay Bà-la-môn nào trong tương lai, sau khi chứng đạt sẽ an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không tánh, tất cả các vị ấy sau khi chứng đạt đều sẽ an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không tánh này.

Này Ananda, phàm có những Sa-môn hay Bà-la-môn nào trong hiện tại, sau khi chứng đạt và an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không tánh, tất cả các vị ấy sau khi chứng đạt nếu an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không tánh này. Do vậy, này Ananda, sau khi chứng đạt Ta sẽ an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không tánh. Như vậy, này Ananda, các Ông cần phải học tập.”

(Trung Bộ 121)

 

"Ananda, whatever contemplatives and priests who in the past entered and remained in an emptiness that was pure, superior, and unsurpassed, they all entered and remained in this very same emptiness that is pure, superior, and unsurpassed. Whatever contemplatives and priests who in the future will enter and remain in an emptiness that will be pure, superior, and unsurpassed, they all will enter and remain in this very same emptiness that is pure, superior, and unsurpassed. Whatever contemplatives and priests who at present enter and remain in an emptiness that is pure, superior, and unsurpassed, they all enter and remain in this very same emptiness that is pure, superior, and unsurpassed."Therefore, Ananda, you should train yourselves: 'We will enter and remain in the emptiness that is pure, superior, and unsurpassed.'"

(Majjhima Nikaya 121,

AN TRÚ KHÔNG

[Ananda] “Bạch Thế Tôn, con được nghe trước mặt Thế Tôn, con được ghi nhớ trước mặt Thế Tôn như sau: "Này Ananda, Ta nhờ an trú không, nên nay an trú rất nhiều". Phải chăng, bạch Thế Tôn, điều con đã nghe là nghe đúng, ghi nhớ đúng, tác ý đúng, thọ trì đúng?

[Buddha] “Thật vậy, này Ananda, điều Ông đã nghe là nghe đúng, ghi nhớ đúng, tác ý đúng, thọ trì đúng. Thuở xưa và nay, này Ananda, Ta nhờ an trú không, nên nay an trú rất nhiều

                                                                  (Trung Bộ 121)

                                

[Ananda: ] “I heard and  learned  this: 'I now often remain in an attitude of emptiness.' Did I hear that correctly, learn it correctly, attend to it correctly, remember it correctly?"

[The Buddha:] "Yes, Ananda, you heard that correctly, learned it correctly, attended to it correctly, remembered it correctly. Now, as well as before, I often remain in an attitude of emptiness. 

(Majjhima Nikaya 121)

 

LẤY TÂM NHÌN TÂM

ĐẶC TÍNH

 

 

TÂM BIẾT VÔ VI

ví như hư không, với nhiều đặc tính:

1. không già (na jivati)

2. không chết (na miyati)

3. không thay đổi (na cavati)

4. không sanh (na uppajjati)

5. không bị ép chế (appasayhan)

6. không bị tổn hại (acprakahaniyam)

7. không có nơi nương đỡ (anissatam)

8. đường đi của loài phi cầm  (vihinkakamanam)

. không có gì cả (niravaranam)

10. không bờ không mé (anantam)

(Kinh Mi Tiên Vấn Đáp)

 

 

 

 

Awareness/Knowing

 

TÂM

 

 

Mind / Objects

 

Tâm

(Cảnh)

 

Infinite/unlimited/limitless/ boundless/ unbounded

 

VÔ HẠN/

VÔ BIÊN

Finite/limited /

 

 

HỮU HẠN/

HỮU BIÊN

 

 

Immeasurable

 

 

VÔ LƯỢNG

 

 

Measurable

 

 

HỮU LƯỢNG

Endless/unending

 

VÔ TẬN

 

 

 

Illimitable

 

GIỚI HẠN

Unchangeable/changeless

 

 

BẤT BIẾN

Changeable

 

 

VẠN BIẾN

 

 

 

Immutable/immovable/motionless/unshakable/

ưnavering

 

BẤT ĐỘNG

Mutable/movable/

shakable/

 

 

CHUYỂN ĐỘNG

 

 

 

All-inclusive/

all-embracing

 

 

 

BAO TRÙM

DUNG CHỨA

 

Objects included/

objects embraced

 

ĐƯỢC BAO TRÙM/

ĐƯỢC DUNG CHỨA

 

 

Vast/Immense/spacious

 

MÊNH MÔNG/

BAO LA

 

 

Illimitable

 

GIỚI HẠN

 

 

Invisible/ shapeless

 

VÔ HÌNH/

VÔ DẠNG

 

Visible /shaped

 

 

HỮU HÌNH/

HỮU DẠNG

 

 

 

Formless/ signless

 

 

VÔ TƯỚNG

Form / sign

 

 

HỮU TƯỚNG

 

 

Empty

 

RỖNG

 

 

Full of objects

 

 

ĐẦY

Silent

 

LẶNG

 

 

Noisy

 

 

ỒN

Pure

 

TRONG

 

 

Impure

 

 

ĐỤC

Bright

 

SÁNG

 

 

Dark

 

 

TỐI

Natural

 

 

TỰ NHIÊN

 

 

 

Unnatural

 

 

BẤT TỰ NHIÊN

Ordinary

 

 

 

BÌNH THƯỜNG

 

 

 

Extraordinary

 

 

 

BẤT BÌNH THƯỜNG

Original

 

 

NGUYÊN THỦY/

GỐC

 

 

 

Unoriginal

 

 

KHÔNG CÒN NGUYÊN THỦY/ XA RỜI GỐC

 

 

]

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào: