CỐT LÕI THIỀN TỨ NIỆM XỨ
(The True Essence of Sati Meditation)
LẤY
T Â M
NHÌN
T â m
Tập Nguyên Lý
Minh Tuệ Đỗ Minh
2020
NGUYÊN LÝ
Hai
Thực Tại
VÔ VI - HỮU VI
(Tâm
– Cảnh)
trong
Kinh Phật
¤
MỤC LỤC
Trang
|
Lời nói đầu
. .
. . .
. . .
. . .
. . . . |
9 |
|
Biểu đồ
. .
. . .
. . .
. . .
. . .
. . . |
13 |
|
Ẩn dụ
trong kinh Phật . . .
. . . . . . |
23 |
|
Đặc
tính . .
. . . . .
. . .
. . .
. . . |
34 |
v
LỜI NÓI ĐẦU
Mục đích của Thiền Phật Giáo là Niết-Bàn. Kinh Niệm Xứ là một
trong những bản kinh ‘liễu nghĩa’ nhất, thù thắng nhất mà Đức Thế Tôn đã để lại
cho chúng ta làm bản đồ tu tập hướng về
mục đích này. Vì vậy, việc ‘y cứ’ vào những
lời vàng trong kinh Sati PatthanaSutta là một điều tối quan trọng đối với những
ai thực sự thiết tha với con đường giải thoát.
“Lấy Tâm nhìn tâm” được chọn làm tựa sách này là một câu nói rất
quen thuộc với những người đã từng biết đến thiền. Tuy chỉ bốn từ nhưng chứa đựng
được cốt tủy tinh hoa của thiền tập.
Hai chữ ‘Tâm” vang lên giống nhau, viết xuống như nhau nhưng ý
nghĩa của chúng thì hoàn toàn khác biệt, tạm gọi nôm na là “tâm lớn” và “tâm nhỏ”.
Chính xác hơn hết thì chúng chính là “Tâm Vô Vi” và “Tâm Hữu Vi”.
Tâm Vô Vi chỉ có một còn Tâm Hữu Vi thì vạn trạng thiên hình. Tâm Vô Vi thì ai
cũng như ai, nhưng Tâm Hữu Vi thì chẳng người nào giống người nào cả.
Có thể nói rằng toàn bộ giáo pháp của Đức Phật chỈ tóm gọn trong
hai thuật ngữ này: Vô Vi và Hữu Vi (asankhata dhamma và sankhata dhamma hay
unconditioned reality và conditioned reality).
Chỉ khi nào một người hiểu được rốt ráo hai sự thật này thì mới có
thể nói rằng người đó là người tỉnh thức, là người biết được mình là ai, mình
là gì.. Người tỉnh thức thì mới có khả năng thoát khỏi ảo tưởng vô minh.
Thấy được Vô Vi và Hữu Vi là thấy “tính toàn thể của thực tại”
(the totality of reality) hay còn gọi là “thực tại hai tầng” (twofold reality).
Trong mỗi chúng sanh, ai cũng có sẵn hai tầng thực tại này nhưng người
nhận ra được Thực Tại Vô Vi này quả thật là rất hiếm.
Nếu có ‘con mắt ít bụi’ nhìn được bản chất “vạn biến” của pháp hữu vi
thì không khó để thấy ra “cái tâm bất biến” vô vi. Hay nói cách khác, chỉ khi
nhận ra được Tâm Vô Vi thì mới có khả năng thấy được tánh sinh diệt vô thương của
các pháp hữu vi.
Như vậy, “Lấy tâm nhìn tâm” đồng nghĩa với “lấy tâm vô vi không
sinh không diệt để quan sát những trạng thái tâm sinh diệt hữu vi”.
Tầm quan trọng của Tâm Biết Vô Vi này thể hiện rất rõ trong kinh
Niệm Xứ - những từ như ‘Biết’, ‘Tuệ Tri’ đã được Đức Phật lập đi lập lại rất
nhiều lần. Trên nền của Tuệ Tri là sự sinh diệt của Thân Thọ Tâm Pháp. Và chúng
ta hành thiền quán chính là an trú vào Tâm này, quán sát những gì xảy ra trên
thân để “không nương tựa, không chấp trước bất cứ một pháp nào thuộc kinh nghiệm
hữu vi.
Khi đã hiểu rõ bản chất vô thường, bất toại nguyện, không phải là
tự ngã của tấm thân ngũ uẩn này thì quá trình xả ly, ‘đặt gánh nặng xuống’ chẳng
phải sẽ rất đơn giản hay sao?
Nếu nói “Thiền là nghệ thuật phá vỡ sự đồng hóa với bản ngã”
(Meditation is the art of breaking the identification with the ego) thì với
thanh kiếm của Tâm Biết Vô Vi, tấm thân ngũ uẩn hay cái ta ảo tưởng này sẽ
không có khả năng sống sót lâu dài.
Trong tập sách nhỏ này, chúng tôi cố gắng hệ thống lại những hiểu
biết căn bản về pháp học, cũng là những nguyên lý nền tảng cho pháp hành, bằng những biểu đồ cùng những ẩn dụ nói về
hai thực tại - Tâm Vô Vi và Cảnh Hữu Vi (hay Thức Hữu Vi). Đồng thời trích dẫn
thêm một số kinh Phật, đặc biệt là Kinh Pháp Cú (Dhammapada) để minh chứng cho những hiểu biết và nguyên
lý ấy.
Xin chân thành gởi lời tri ân đến những người bạn thời gian qua đã
cùng với chúng tôi học tập những lời Phật dạy, khuyến khích và truyền nhiều cảm
hứng cho nhau để món quà Pháp khiêm tốn này có thể ra đời.
Mong cho tất cả chúng ta sớm nhận ra “bản tâm vô vi” hay “bản chất
chân thật” nơi chính mình để sống một đời hạnh phúc, trí tuệ và bình an. Đó là
cách chúng ta bảo vệ Chánh Pháp thực sự, khi thế gian này vẫn còn rất nhiều người
hiểu được những lời vàng của Đức Thế Tôn thì Chánh Pháp vẫn còn sáng mãi.
Kính,
Minh Tuệ Đỗ Minh
Tháng 10 / 2020
1.
BIỂU
ĐỒ
Biểu đồ về hai
pháp Vô Vi và Hữu Vi được chia thành 2 cột: cột bên phải là Tâm (vô vi), cột
bên trái là Cảnh(hữu vi).
Tâm cũng như Cảnh
có nhiều tên gọi khác nhau nhưng những cách gọi đó đều cùng một ý nghĩa. Ví dụ,
ta có thể gọi Tâm Vô Vi là Tâm Vô Tướng, Pháp Hiện Tại, Pháp Bất Tử .v..v… còn
Tâm Hữu Vi là Pháp Nhất Thiết Tướng, Pháp Sinh Diệt, Pháp Giả .v..v…
Trong những cách
gọi tên được liệt kê ở đây, ở cột bên phải về Tâm có hai thuật ngữ có thể sẽ “lạ
tai” với nhiều người. Đó là “Tự Ngã” (Atta, Self) và “Chánh Pháp” (Dhamma,
Truth).
(Tự ngã)
Trước tiên xin nói về “Tự Ngã”.
Khi hỏi “Có Tự Ngã hay không?”, câu trả lời thông thường là “không có Tự
Ngã”
(anatta). Điều này cũng không sai nhưng chỉ đúng một nửa. Nhưng nếu hỏi
“Ngũ uẩn này có phải là Tự Ngã không?” thì trả lời “Ngũ uẩn không phải là Tự
Ngã” thì tuyệt đối chính xác.
Hãy cùng đọc lại một câu kinh
Pháp Cú xem Đức Phật ngụ ý gì khi khuyên chúng ta “hãy yêu tự ngã” :
Nếu biết yêu
tự ngã,
Phải khéo bảo
vệ mình,
Người trí
trong ba canh,
Phải luôn
luôn tỉnh thức.
(Pháp Cú
157)
Attanance piyam janna
rakkheyya nam surakkhitam
tinnam annataram yamam
patijaggeyya pandito.
Hay:
Tự mình y chỉ
mình,
Nào có y chỉ
khác.
Nhờ khéo điều
phục mình,
Ðược y chỉ
khó được.
(Pháp Cú 160)
Atta hi attano natho
ko hi natho paro siya
attana hi sudantena
natham labhati dullabham.
Cả hai câu đều có “atta”. Như vậy rất
dễ dàng thấy ra ý nghĩa của “tự ngã” ở đây là nói đến “Tâm Vô Vi”, để đối lại
với “Ngũ uẩn hữu vi”, là “anatta”, không phải là tự ngã.
Trong
tạng Kinh, khi đề cập đến “anatta”, “vô ngã” Đức Phật thường giảng rộng là “không
phải là ta, không phải của ta, không phải tự ngã của ta” (‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti -
This is not mine, I am not this, this is not my self.’)
Như
vậy, “Tự Ngã” khi được Ngài sử dụng trong những kinh trên có phải là muốn nói
đến cái “Tâm Biết Vô Vi” hay “bản thể thực sự cuẩ chính mình” hay không? Có
phải nó đồng nghĩa với “Chân Ngã”, “Chân Tâm”, “Chân Tánh”, “Tự Tánh” . . . mà
chúng ta thường nghe hay không?
Cùng
đọc thêm một câu kinh nổi tiếng khác:
"Này Ananda,
hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình
(atta-dipà viharatha), hãy tự mình y tựa chính mình (attàsaranà) chớ y tựa một
cái gì khác. Dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm
chỗ nương tựa, chớ nương tựa một cái gì khác ...”
(Trường Bộ
III) (Tương Ưng V, 170)
Một lần nữa lại thấy “atta”. Và như vậy, ý nghĩa của “atta” như đã
trình bày ở trên không còn phải luận bàn gì thêm nữa.
Khi hiểu được ý nghĩa thâm
sâu của “atta” như vậy, tâm chúng ta sẽ mở rộng, phóng khoáng hơn rất nhiều,
nhất là khi tiếp nhận những lời giảng của các vị đạo sư đương thời. Có nhiều vị
thường hay dung “Self” (viết hoa, dich Việt là Ngã, để nói về Bản Tâm). Vì nếu
không hiểu đúng, đôi khi chúng ta lại quy chụp cho họ là “tà kiến”, không biết
được rằng người thiểu trí chính là ta, nhận định bừa chỉ để lộ ra cái dốt của
chính mình.
(Pháp hay Chánh
Pháp)
Bây giờ xin nói về “chánh pháp”
”Chánh Pháp” cũng không phải chỉ có một nghĩa theo
cách hiểu thông thường là “tam tạng kinh điển”.
Trong câu kinh vừa trích dẫn ở trên:
“Dùng chánh
pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một
cái gì khác ...”
(Trường Bộ
III & Tương Ưng V)
Lúc
Đức Thế Tôn giảng kinh này chắc chắn là chưa có “tam tạng”, nên ý nghĩa của nó
là gì? Phải chăng là “ngọn đèn”, là “ánh sáng”, là “hòn đảo” của “Tâm Biết Vô
Vi” ai ai cũng có? Phải chăng “nương tựa vào Chánh Pháp” là “nương tựa vào ngọn
đèn Tâm, là an trú vào Tâm Chói Sáng của chính mình”?
Đó
là những lý do để những từ này được xếp trong biểu đồ nơi cột “Tâm Biết Vô Vi”.
Thêm
một câu kinh nữa:
Tỷ kheo an
trú Pháp,
Mến pháp, suy tư Pháp.
Tâm tư niệm chánh Pháp,
Không rời bỏ chánh Pháp.
(Pháp
Cú 364)
Dhammaramo dhammarato
dhammam anuvicintayam
dhammam anussaram bhikkhu
saddhamma na parihayati.
The bhikkhu who
abides in the Dhamma, who delights in the Dhamma, who meditates on the Dhamma,
and is ever mindful of the Dhamma, does not fall away from the Dhamma.
Chắc chắn lời kinh này Đức Thế Tôn khuyên chúng ta an trú vào
chánh niệm, hoan hỷ sống trong thiền, không rời bỏ Tâm Biết Vô Vi Chói Sáng của
mình, chứ không phải chỉ là tụng kinh, đọc điển như một số người thường nghĩ.
AWARENESS KNOWING TÂM |
MIND OBJECTS Tâm (Cảnh) |
Unconditioned PHÁP VÔ VI |
Conditioned PHÁP HỮU VI |
Unmanifested / Formless/ Signless PHÁP VÔ TƯỚNG |
Manifested/Form/Sign PHÁP HỮU TƯỚNG |
Uncreated PHÁP VÔ TÁC |
Created PHÁP TẠO TÁC |
Aggregate-freed NGOẠI UẨN |
Aggregates NGŨ UẨN |
Timeless / time-freed NGOẠI THỜI |
Time THỜI GIAN |
Presence PHÁP HIỆN TẠI |
Past & future QUÁ KHỨ & TƯƠNG LAI |
Stillness PHÁP TĨNH |
Movements PHÁP ĐỘNG |
Unborn & Undied PHÁP KHÔNG SINH KHÔNG DIỆT |
Born & Died PHÁP SINH DIỆT |
Eternal PHÁP BẤT TỬ |
arising & vanishing /coming &
going/ appearing & disappearing PHÁP SINH DIỆT |
Real / True PHÁP THẬT (Chánh Pháp) |
Unreal / Untrue, False PHÁP GIẢ (Phi pháp) |
Nothing /Nothingness / Emptiness/Voidness PHÁP KHÔNG (Tánh Không) |
Things / Somethingness PHÁP CÓ |
True nature BẢN CHẤT CHÂN THẬT (Chân Tánh) |
False nature BẢN CHẤT GIẢ HỢP (Ảo Tánh/ Huyễn Tánh) |
Egoless self / true self / real self CHÂN NGÃ (Tự Ngã/Chính Mình) |
Egoic self / false self/ illusory self GIẢ NGÃ (Cái Ta Ảo tưởng/ Bản ngã) |
Who you are / What you are CHÍNH MÌNH (không là ai/chẳng là gì) |
Who you are not / What you are not CÁI KHÔNG PHẢI LÀ MÌNH (là ai đó/là gì đó) |
Knowing TÂM BIẾT / CÁI BIẾT |
Body Feeling Mind Phenomena THÂN THỌ TÂM PHÁP |
The Source TÂM NGUỒN |
Arising from source PHÁP PHÁT SINH TỪ NGUỒN |
2.
TRÍCH DẪN KINH PHẬT
TÂM |
Tâm (Cảnh) |
Unconditioned PHÁP VÔ VI |
Conditioned PHÁP HỮU VI |
[Ananda’]“Bạch Thế Tôn, có pháp môn nào
khác, là vừa đủ để nói:
"Tỷ-kheo thiện xảo về giới?"
[Buddha]“Có,
này Ananda. Này Ananda, có hai giới này: hữu vi giới và vô vi giới. Này
Ananda, cho đến khi biết được, thấy
được hai giới này, cho đến mức độ như
vậy, này Ananda, là vừa đủ để nói:
"Tỷ-kheo thiện xảo về giới"
(Kinh Đa Giới, Trung Bộ 115)
[Ananda]“Venerable
sir, might there be another way in which a bhikkhu can be called skilled in the
elements?”
ơBuddha]“There
might be, Ananda. There are, Ananda, these are two elements: the conditioned element and the
unconditioned element. When he knowa these two elements, a bhikkhu can be
called skilled in the elements.”
(Bahudhatuka Sutta 115)
“Hỡi này Bà là môn,
Hãy tinh tấn đoạn dòng,
Từ bỏ các dục lạc,
Biết được hành đoạn diệt,
Người là bậc vô vi.”
(Kinh
Pháp Cú 383)
“O Brahmana, cut off the stream of craving with
diligence, and abandon sense desires. O Brahmana, perceiving the cessation of
the conditioned, be an arahat who realizes Nibbana, the Unconditioned.”
(Dhammapada 383)
TÂM |
Tâm (Cảnh) |
Unmanifested/Formless/ Signless PHÁP VÔ TƯỚNG |
Manifested/Forms/Signs PHÁP HỮU TƯỚNG |
“Có bao nhiêu duyên để chứng nhập vô tướng tâm
giải thoát?
“Này Hiền giả, có hai duyên để
chứng nhập vô tướng tâm giải thoát: không có tác ý nhất thiết tướng và tác ý vô
tướng giới. Này Hiền giả, do hai duyên này mà chứng nhập vô tướng tâm giải
thoát.”
(Kinh Phương Quãng,
Trung Bộ 43)
SIGN & SIGNLESS
“How
many conditions are there for the attainment of the signless deliverance of
mind?
Friend,
there are two conditions for the attainment of the signless deliverance of
mind: non-attention to all signs and attention to the signless elements.”
(Mahavedalla Sutta 43)
SỰ NGUY HIỂM CỦA TƯỚNG
Ai sống nhìn
tịnh tướng,
Không hộ trì
các căn,
Ăn uống thiếu
tiết độ,
Biếng nhác,
chẳng tinh cần.
Ma uy hiếp kẻ
ấy,
Như cây yếu
trước gió.
(Pháp Cú 7)
Ai sống quán
bất tịnh,
Khéo hộ trì
các căn,
ăn uống có
tiết độ,
Có lòng tin,
tinh cần,
Ma không uy
hiếp được,
Như núi đá,
trước gió.
(Pháp Cú 8)
He who keeps his mind on pleasant objects, who is uncontrolled in
his senses, immoderate in his food, and is lazy and lacking in energy, will
certainly be overwhelmed by Mara, just as stormy winds uproot
a weak tree.
(Dhammapada
7)
He who keeps his mind on the impurities, who is well-controlled in
his senses and is full of faith and energy, will certainly be not overwhelmed
by Mara, just as stormy winds cannot shake a mountain of rock.
(Dhammapada
8)
TÂM |
Tâm (Cảnh) |
Presence PHÁP HIỆN TẠI |
Past & Future PHÁP QUÁ KHỨ TƯƠNG LAI |
Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng.
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến,
Chỉ có pháp hiện tại
Tuệ quán chính ở đây.
Không động, không rung chuyển
Biết vậy, nên tu tập,
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết,
Trú như vậy nhiệt tâm,
Đêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.
(Kinh
Nhất Dạ Hiền Giả, Trung Bộ 131)
One would not chase after the past,
nor place expectations on the future.
What is past is left behind.
The future is as yet unreached.
Whatever quality is present
one clearly sees right there, right there.
Unvanquished, unshaken,
that's how one develops the mind.
Ardently
doing one's duty today,
for -- who knows? – tomorrow death may come.
There is no bargaining with Death and his mighty horde.
Whoever
lives thus ardently, relentlessly
both day and night,
has truly had an auspicious day:
So says the Peaceful Sage.
(Majjhima
Nikaya 131,
Bhaddekaratta
Sutta)
TÂM |
Tâm (Cảnh) |
Eternal PHÁP BẤT TỬ |
Arising/Vanishing SINH DIỆT |
Ai sống một
trăm năm,
Không thấy
pháp sinh diệt,
Tốt hơn sống
một ngày,
Thấy được
pháp sinh diệt.”
(Pháp cú 113)
Yo ca vassasatam jive
apassam udayabbayam1
ekaham jivitam seyyo
passato udayabbayam.
Better
than a hundred years in the life of a person who does not perceive the arising
and the dissolving of the five aggregates, is a day in the life of one who
perceives the arising and dissolving of the five aggregates.
(Dhammapada 113)
Ai sống một
trăm năm,
Không thấy pháp bất tử,
Tốt hơn sống một ngày,
Thấy được pháp bất tử.
(Pháp cú 114)
Yo ca vassasatam jive
apassam amatam padam
ekaham jivitam seyyo
passato amatam padam.
Better than a hundred years in the life of a person who does not
perceive the Deathless, is a day in the life of one who perceives the
Deathless.
(Dhammapada 114)
TÂM |
Tâm (Cảnh) |
Real/True PHÁP THẬT (Chánh Pháp) |
Unreal/Untrue/False PHÁP GIẢ (Phi pháp) |
THẬT – GIẢ
Không chân, tưởng chân thật,
Chân thật, thấy không chân
Họ không đạt chân thật
Do tà tư tà hạnh
(Pháp Cú 11)
"Chân thật, biết chân thật,
Không chân, biết không chân.
Chúng đạt được chân thật,
Do chánh tư, chánh hạnh."
(Pháp Cú 12)
They
take untruth for truth; they take truth for untruth; such persons can never
arrive at the truth, for they hold wrong views.
(Dhammapada 11)
They who
know truth in truth, and untruth in untruth, arrive at truth, and follow true
desires.
(Dhammapada 12)
TÂM |
Tâm (Cảnh) |
True Self CHÂN NGÃ (Tự
Ngã/Chính mình) |
Illusory self/False self GIẢ NGÃ (Cái Ta Ảo Tưởng/Không Phải Tự Ngã) |
TỰ NGÃ – KHÔNG PHẢI TỰ NGÃ
Nếu biết yêu
tự ngã,
Phải khéo bảo
vệ mình,
Người trí
trong ba canh,
Phải luôn
luôn tỉnh thức.
(Pháp Cú 157)
Attanance piyam janna
rakkheyya nam surakkhitam
tinnam annataram yamam
patijaggeyya pandito.
If one knows that one is dear to oneself, one should protect
oneself well. During any of the three watches.
the wise man should be on guard .
Tự mình y chỉ
mình,
Nào có y chỉ
khác.
Nhờ khéo điều
phục mình,
Ðược y chỉ
khó được.”
(Pháp Cú 160)
Atta hi attano natho
ko hi natho paro siya
attana hi sudantena
natham labhati dullabham.
One
indeed is one's own refuge; how can others be a refuge to one? With oneself
thoroughly tamed, one can attain a refuge, which is so difficult to attain.
(Dhammapada
160)
TÂM |
Tâm (Cảnh) |
Nothingness/Emptiness/ Voidness PHÁP KHÔNG (TÁNH KHÔNG) |
Thingness/Somethingness PHÁP CÓ |
KHÔNG TÁNH
“Này Ananda, phàm có những Sa-môn hay
Bà-la-môn nào trong quá khứ sau khi chứng đạt, đã an trú cứu cánh vô thượng
thanh tịnh Không tánh (Sunnatam), tất cả các vị ấy sau khi chứng đạt đều chỉ an
trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không tánh này.
Này Ananda, phàm có những Sa-môn
hay Bà-la-môn nào trong tương lai, sau khi chứng đạt sẽ an trú cứu cánh vô thượng
thanh tịnh Không tánh, tất cả các vị ấy sau khi chứng đạt đều sẽ an trú cứu
cánh vô thượng thanh tịnh Không tánh này.
Này Ananda, phàm có những Sa-môn hay
Bà-la-môn nào trong hiện tại, sau khi chứng đạt và an trú cứu cánh vô thượng
thanh tịnh Không tánh, tất cả các vị ấy sau khi chứng đạt nếu an trú cứu cánh
vô thượng thanh tịnh Không tánh này. Do vậy, này Ananda, sau khi chứng đạt Ta
sẽ an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không tánh. Như vậy, này Ananda, các
Ông cần phải học tập.”
(Trung
Bộ 121)
"Ananda,
whatever contemplatives and priests who in the past entered and remained in an
emptiness that was pure, superior, and unsurpassed, they all entered and
remained in this very same emptiness that is pure, superior, and unsurpassed.
Whatever contemplatives and priests who in the future will enter and remain in
an emptiness that will be pure, superior, and unsurpassed, they all will enter
and remain in this very same emptiness that is pure, superior, and unsurpassed.
Whatever contemplatives and priests who at present enter and remain in an
emptiness that is pure, superior, and unsurpassed, they all enter and remain in
this very same emptiness that is pure, superior, and
unsurpassed."Therefore, Ananda, you should train yourselves: 'We will
enter and remain in the emptiness that is pure, superior, and
unsurpassed.'"
(Majjhima Nikaya 121,
AN TRÚ KHÔNG
[Ananda]
“Bạch Thế Tôn, con được nghe trước mặt Thế Tôn, con được ghi nhớ trước mặt Thế
Tôn như sau: "Này Ananda, Ta nhờ an trú không, nên nay an trú rất
nhiều". Phải chăng, bạch Thế Tôn, điều con đã nghe là nghe đúng, ghi nhớ
đúng, tác ý đúng, thọ trì đúng?
[Buddha] “Thật vậy, này Ananda, điều Ông đã nghe là nghe đúng, ghi
nhớ đúng, tác ý đúng, thọ trì đúng. Thuở xưa và nay, này Ananda, Ta nhờ an trú không,
nên nay an trú rất nhiều
(Trung Bộ 121)
[Ananda: ] “I heard and learned
this: 'I now often remain in an attitude
of emptiness.' Did I hear that correctly, learn it correctly, attend to it
correctly, remember it correctly?"
[The Buddha:] "Yes, Ananda,
you heard that correctly, learned it correctly, attended to it correctly,
remembered it correctly. Now, as well as before, I often remain in an attitude
of emptiness.
(Majjhima Nikaya 121)
LẤY TÂM NHÌN TÂM
ĐẶC TÍNH
TÂM BIẾT VÔ VI
ví như hư
không, với nhiều đặc tính:
1. không già
(na jivati)
2. không chết
(na miyati)
3. không
thay đổi (na cavati)
4. không
sanh (na uppajjati)
5. không bị
ép chế (appasayhan)
6. không bị
tổn hại (acprakahaniyam)
7. không có
nơi nương đỡ (anissatam)
8. đường đi
của loài phi cầm (vihinkakamanam)
. không có
gì cả (niravaranam)
10. không bờ
không mé (anantam)
(Kinh Mi Tiên Vấn Đáp)
Awareness/Knowing TÂM |
Mind / Objects Tâm (Cảnh) |
Infinite/unlimited/limitless/
boundless/ unbounded VÔ HẠN/ VÔ BIÊN |
Finite/limited / HỮU HẠN/ HỮU BIÊN |
Immeasurable VÔ LƯỢNG |
Measurable HỮU LƯỢNG |
Endless/unending VÔ TẬN |
Illimitable GIỚI HẠN |
Unchangeable/changeless BẤT BIẾN |
Changeable VẠN BIẾN |
Immutable/immovable/motionless/unshakable/ ưnavering BẤT ĐỘNG |
Mutable/movable/ shakable/ CHUYỂN ĐỘNG |
All-inclusive/ all-embracing BAO TRÙM DUNG CHỨA |
Objects included/ objects embraced ĐƯỢC BAO TRÙM/ ĐƯỢC DUNG CHỨA |
Vast/Immense/spacious MÊNH MÔNG/ BAO LA |
Illimitable GIỚI HẠN |
Invisible/ shapeless VÔ HÌNH/ VÔ DẠNG |
Visible /shaped HỮU HÌNH/ HỮU DẠNG |
Formless/ signless VÔ TƯỚNG |
Form / sign HỮU TƯỚNG |
Empty RỖNG |
Full of objects ĐẦY |
Silent LẶNG |
Noisy ỒN |
Pure TRONG |
Impure ĐỤC |
Bright SÁNG |
Dark TỐI |
Natural TỰ NHIÊN |
Unnatural BẤT TỰ NHIÊN |
Ordinary BÌNH THƯỜNG |
Extraordinary BẤT BÌNH THƯỜNG |
Original NGUYÊN THỦY/ GỐC |
Unoriginal KHÔNG CÒN NGUYÊN THỦY/ XA RỜI GỐC |
]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét