Thứ Tư, 26 tháng 5, 2021

TỰ NGÃ (ATTA) TRONG KINH PALI

 

 

 

 

 

TỰ NGÃ

trong

 

KINH PALI

 

]

 

Minh Tuệ Đỗ Minh

 

 

 

 

 TỰ NGÃ TRONG KINH  PALI

Nếu chúng ta hỏi “Có Tự Ngã không?” thì có lẽ 99% những người theo đạo Phật sẽ trả lời là “Không” chắc nịch!

Điều này cũng dễ hiểu vì ai học Phật cũng biết một điều rất căn bản là: Ngũ Uẩn là vô thường, khổ  và vô ngã. Nói rộng hơn là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức này là vô thường, khổ, vô ngã.

Có lẽ chữ “vô ngã” thường được hiểu là “không có tự ngã” nên ai nói rằng “có tự ngã” thì đương nhiên là người ấy nói sai.

Trong khi đó, ý nghĩa của “vô ngã” này trong rất nhiều bài kinh Phật đều là “không phải là ta, không phải là của ta, không phải là tự ngã của ta”. (netam mama, neso hamasmi, na meso atta’ti). Mở rộng hơn nữa thì đó chính là: Ngũ uẩn này vốn “không phải là ta THẬT, không phải là của ta THẬT, không phải là tự ngã THẬT của ta”

Vậy thì “Cái gì THẬT là ta, cái gì THẬT là của ta, cái gì THẬT là tự ngã của ta”?

Và cũng với cách hiểu “không có tự ngã” phổ biến như trên thì chắc chắn câu trả lời sẽ là:

“Chẳng có gì thật là ta cả, chẳng có gì thật là của ta cả, chẳng có gì thật là tự ngã của ta cả”

-------------

Đức Phật có bao giờ nói về “tự ngã” không?

Chúng ta hãy cùng nghe lại một số câu kinh trong Kinh Pháp Cú, phẩm Tự Ngã:

 

Ai biết yêu tự ngã

Phải khéo bảo vệ mình

Người trí trong ba canh

Phải luôn luôn tỉnh thức (Pháp Cú 157)

 

Hay

 

Tự mình y chỉ mình

Không có y chỉ khác

Nhờ khéo điều phục mình

Được y chỉ khó được (Pháp Cú 160)

 

Nếu không có cái gì đó gọi là ‘tự ngã’, tại sao Phật lại bảo mình ‘yêu’?

Nếu không có cái gì đó gọi là ‘chính mình’, tại sao Phật lại khuyên mình phải khéo ‘bảo vệ’?

Nếu không có cái ‘tự ngã’ này, cái ‘chính mình’ này, tại sao Phật lại dạy ta phải ‘y chỉ’ vào nó?

Và qua những lời kinh này, chúng ta không thể nói rằng ‘không có tự ngã’ được, không có ‘chính mình’ được.

Vậy Atta – tự ngã – mà Phật bảo mình yêu quý, bảo vệ, y chỉ, nương tựa ấy là cái gì trong chúng ta?

----------------

Nếu chúng ta thấy được hai thực tại vô vi và hữu vi vốn hiện hữu bên trong mỗi chúng sanh thì có thể hiểu lời Phật như thế này:

- Atta (tự ngã) chỉ cho thực tại vô vi

- Anatta (không phải là tự ngã) chỉ cho thực tại hữu vi.

Mà ngũ uẩn hữ vi là anatta, là vô ngã (không phải là ta, không phải là của ta, không phải là tự ngã của ta) thì Atta ở đây là cái gì? Phải chăng là cái có khả năng biết được, quan sát được sự vân hành của ngũ uẩn sinh diệt, thấy biết được những hoạt động của tấm thân ngũ uẩn hữu vi này? Cái đó gọi là ‘ngoại uẩn’ (bahira-khandha) đồng nghĩa với Niết-bàn hay pháp vô vi.

Nếu ai đó nói rằng ‘ngũ uẩn này là ta, là atta’ thì đương nhiên là người đó nói sai. Nhưng nếu nói rằng Atta chính là Tâm Biết Vô Vi hay Pháp Ngoại Uẩn Niết-bàn thì chắc chắn rằng người ấy đã nói đúng!

-------

Bên cạnh những câu kinh Pháp Cú vừa mới đề cập ở trên, bây giờ chúng ta cùng đọc lại một lời kinh nổi tiếng khác mà ai cũng biết là:

"Hãy tự mình làm hòn đảo cho chính mình, làm ngọn đèn cho chính mình (atta-dipa viharatha), hãy tự mình y tựa chính mình (atta-sarana), chớ y tựa một cái gì khác. Dùng chánh pháp làm hòn đảo, làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm nơi nương tựa, chớ nương tựa một cái gì khác."

Vậy cái gì bên trong chúng ta có khả năng làm hòn đảo, làm ngọn đèn, làm chánh pháp để chúng ta có thể nương tựa vào nó?

Và chúng ta không thể không đồng ý rằng khái niệm Atta khi được Đức Phật sử dụng trong những kinh trên chính là muốn nói đến cái Tánh Biết Vô Vi hay bản thể thật sự bất tử, không sinh không diệt vốn có sẵn nơi mỗi chúng sanh.

Có phải Tâm Biết ấy cũng đồng nghĩa với Chân Tâm, Chân Ngã, Chân Tánh, Tự Tánh, Giác Tánh, bản Tâm, Tâm Nguồn mà chúng ta vẫn thường hay nghe hay không?

 

(TỰ NGÃ TRONG KINH NIỆM XỨ)

 

Bây giờ chúng ta nói thêm một chút về Kinh Đại Niệm Xứ.

Trong bản kinh này, chúng ta sẽ gặp được rất nhiều chữ “Tôi”: “Tâm Tôi”, “Tôi Biết” v.v..

“Khi Tâm Tôi có tham, Tôi biết Tâm tôi có tham”, “Khi Tâm tôi có sân, Tôi biết Tâm tôi có sân”, “Khi thở ra Tôi biết Tôi đang thở ra”, Khi thở vô, Tôi biết Tôi đang thở vô” v.v..

Rất nhiều, rất nhiều những lời kinh như thế. Vậy Tôi ở đây là Tôi nào đây? Tôi nhận biết hay Tôi được nhận biết? Tôi chủ thể hay tôi khách thể?

Một lần nữa, chúng ta thấy rõ ràng rằng có hai pháp: “Một pháp là Tôi và một pháp không phải là tôi”.

Do phần lớn chúng sanh đang sống trong vô minh lầm tưởng “cái không phải là tôi” lại là “tôi” (bản ngã) nên có phải vì thế Đức Phật mới nhấn mạnh đến cái Atta thực này để phá tan ngộ nhận?

Chúng ta có thể tạm gọi là “Tôi lớn và tôi nhỏ”, “Tôi thật và tôi giả” để phân biệt hai thực tại Vô vi và Hữu vi mà chúng ta vừa phân tích ở trên.

Trong Phật Giáo, không hiểu được ý nghĩa thật sự của từ “Ngã” hay “Tự Ngã”, làm sao chúng ta có thể cảm nhận được những câu như thế này:

 

Thiên thượng thiên hạ

Duy ngã độc tôn

Nhất thiết thế gian

Sanh lão bệnh tử

(Trên trời dưới trời

Ta là trên hết

Tất cả thế gian

Sanh già bệnh chết)

Hay

Nhược dĩ sắc kiến ngã,

Dĩ âm thanh cầu ngã,

Thị nhân hành tà đạo,

Bất năng kiến Như Lai.

(Nếu dùng sắc thấy Ta

Dùng âm thanh cầu Ta

Người đó hành đạo tà

Không thể thấy Như Lai)

Khi hiểu được ý nghĩa thâm sâu của từ “Tự Ngã”. “Atta” như vậy, tâm chúng ta sẽ mở rộng phóng khoáng hơn rất nhiều , nhất là khi tiếp nhận những lời giảng của các vị đạo sư đương thời, tất nhiên là đôi khi không cùng truyền thống với chúng ta.

Vì nếu không hiểu đúng, chúng ta lại quy chụp cho họ là “ngoại đạo”. “tà kiến” mà không biết rằng “kẻ ngoại”, “kẻ tà” có vấn đề lại chính là mình. Nếu chuyện đó xảy ra thì thật là đáng tiếc !

 

Namo Buddhaya

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

TÂM BIẾT CẢNH

 

 

TÂM

BIẾT

CẢNH

(TÂM VÔ VI BIẾT CẢNH HỮU VI)

]

Minh Tuệ Đỗ Minh

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

TÂM VÀ CẢNH TRONG KINH TẠNG PALI VÀ VI DIỆU PHÁP

Tựa đề của bài viết này có nguồn gốc từ định nghĩa về Tâm trong môn Vi Diệu Pháp.

Trước tiên chúng tôi xin mở đầu bằng 4 câu kinh Pháp Cú. Hai câu đầu tiên về ‘pháp sinh diệt’ và ‘pháp bất tử’:

Tốt hơn sống một ngày

Thấy được pháp sinh diệt

Hơn sống một trăm năm

Không thấy pháp sinh diệt (Pháp Cú 113)

Tốt hơn sống một ngày

Thấy được pháp bất tử

Hơn sống một trăm năm

Không thấy pháp bất tử (Pháp Cú 114)

Pháp sinh diệt thì hầu như ai cũng có thể thấy được nhưng thấy và không đồng hóa mình với chúng thì đó mới là cái thấy của một người thực sự có trí tuệ.

Pháp bất tử trong câu 114 thì có vẻ khó hơn, vượt ngoài khả năng hiểu biết của nhiều người. ‘Bất tử’ nghĩa là ‘không chết’, ‘không diệt’, sở dĩ không diệt là bởi vì những pháp ấy ‘không sanh’, hay ‘vô sanh’, còn gọi là ‘pháp vô sanh bất tử’ hay đơn giản hơn là ‘pháp không sinh không diệt’.

Ở đây, qua lời Phật thì chúng ta thấy rõ là cả hai pháp này, sinh diệt và bất tử, đều có sẵn trong mỗi con người chúng ta. Thế thì cái gì được gọi là “pháp sinh diệt’, cái gì là ‘pháp bất tử’?

Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này ở phần sau khi nói về Tâm và Cảnh.

Bây giờ đến hai câu kinh Pháp Cú tiếp theo là 11 và 12 về ‘pháp thật’ và ‘pháp giả’:

“Chân thật tưởng không chân

Không chân tưởng chân thật

Không chứng được chân thật

Do tà tư tà hạnh” (Pháp Cú 11)

Chân thật biết chân thật

Không chân biết không chân

Chúng chứng được chân thật

Do chánh tư chánh hạnh” (Pháp Cú 12)

Và tư bốn câu kinh ngắn gọn, cô đọng này chúng ta sẽ rất dễ dàng nhận ra ‘pháp sinh diệt đồng nghĩa với ‘pháp không chân’ hay ‘pháp giả’; và “pháp bất tử’ đồng nghĩa với ‘pháp chân thật’ hay ‘pháp thật’.

Xin diễn lại hai câu 11 và 12 như sau:

“Pháp giả biết là giả Pháp thật biết là thật

Chúng chứng được pháp thật Do thấy đúng hành đúng”

“ Pháp giả tưởng là thật Pháp thật thì không biết

Không chứng được pháp thật Do thấy sai hành sai”

Như vậy chúng ta vừa bàn sơ qua về pháp sinh diệt hay pháp giả và pháp không sinh không diệt hay pháp thật.

Hai thực tại này, nếu dùng thuật ngữ khái quát hơn, thì đó chính là ‘pháp hữu vi’ và ‘pháp vô vi’ (sankhata dhamma và asankhata dhamma).

Trong kinh Phật có một lời kinh mà chúng tôi vẫn thường nhắc đi nhắc lại là “Người có trí tuệ phải là người thấy được cả hai pháp vô vi và pháp hữu vi” (Kinh Trung Bộ 140) để nhấn mạnh về tầm quan trọng của cái nhìn toàn diện cần phải có này.

Pháp hữu vi là pháp điều kiện, do duyên hợp nên sinh diệt, biến hoại, vô thường. Pháp vô vi là pháp không điều kiện, không do duyên hợp nên không sinh không diệt, thường hằng, bất tử.

Bây giờ chúng ta đề cập đến chuyện Tâm và Cảnh. Trong môn học Vi Diệu Pháp có một định nghĩa rất hay về Tâm như sau: “Tâm là sự nhận biết” (Cittananmattam Cittam) hay “Tâm là sự biết cảnh” (Arammanan Cinteti Cittam).

Như vậy, qua định nghĩa này, chúng ta thấy rõ ràng là có 2 phần: Tâm và Cảnh: Tâm nhận biết và Cảnh được nhận biết, hay Chủ thể và khách thể.

Cảnh là những gì mà Tâm có thể quan sát được, nhận biết được. Ngũ uẩn hay 12 xứ, 18 giới . . . nói chúng là pháp hữu vi đều được gọi là cảnh.

Bây giờ chúng ta đi sâu hơn một chút vào phần căn bản của môn Vi Diệu Pháp. Xin nói thêm rằng khi bắt đầu học và nghiên cứu môn học này, chúng ta phải thông suốt một điều rất cơ bản là “tất cả các pháp gồm cả hữu vi và vô vi đều có sẵn trong mỗi chúng ta”.

Toàn bộ chi pháp được chia ra gọi là 4 pháp chân đế:

 

1. Tâm vương (citta),

2. Tâm sở (cetasika),

3. Sắc pháp (rupa) và

4. Niết-bàn (Nibbana).

Cụ thể hơn là pháp chân đế hữu vi gồm có: 89 tâm vương, 52 tâm sở và 28 sắc pháp. Còn pháp chân đế vô vi là Niết-bàn.

Từ định nghĩa “Tâm biết cảnh”, chúng ta có thể chia ra làm 2 như thế này:

 

TÂM BIẾT

 

CẢNH

?

1.     Tâm vương

 

2.     Tâm sở

 

3.     Sắc pháp

 

Và nếu Cảnh gồm toàn bộ pháp hữu vi như vậy thì “Tâm Biết là pháp nào? Tâm Biết nằm ở đâu trong bảng nêu?” Chỉ còn lại một pháp duy nhất là chấm vàng lớn nằm phía dưới, bên phải mà ai học môn này cũng đều quen thuộc, đó chính là Pháp Vô Vi Niết Bàn.

Và cũng từ đây, chúng ta có thể khai triển rộng hơn về “Tâm Biết Cảnh” như sau:

Tâm Biết Vô Vi (Niết Bàn)

 

Biết

Cảnh Hữu Vi

Tâm Ngoại Uẩn

Biết

Cảnh Ngũ Uẩn (Danh Sắc)

 

Hay nói theo cách pháp thật, pháp giả hay pháp sinh diệt, pháp bất tử mà chúng ta đã đề cập từ đầu thì “Tâm và Cảnh” sẽ trở thành:

 

Tâm Thật

Biết

Cảnh Giả

 

Tâm Bất tử

Biết

Cảnh Sinh Diệt

 

Đây là chuyện trọng đại trong cả pháp học lẫn pháp hành, nên tuy đây chỉ là một bài viết ngắn, chúng tôi hy vọng cũng đủ để cho chúng ta có được một cái nhìn tổng quát về giáo pháp của Đức Thế Tôn mà ngày nay chúng ta vẫn còn được duyên lành để học hỏi, thực hành. Nhất là với những người hành thiền, chắc chắn con đường thiền tập sẽ tiến bộ nhanh hơn khi hiểu được những tinh hoa này từ Pháp Phật.

Trong kinh nhật tụng có một câu rất hay tóm tắt về vấn đề này Các pháp hữu vi vốn không bền vững, chúng có tánh sanh diệt là thường, vì nhân sanh rồi diệt, diệt rồi sanh, nên thường đem tới sự khổ não, chỉ có Niết Bàn là pháp tịch diệt, dứt khỏi pháp hữu vi ấy được, mới có sự an vui tuyệt đối.”

Và chúng ta thấy rất rõ ràng rằng: muốn đoạn trừ được các pháp hữu vi, chúng ta phải sử dụng pháp Vô Vi Niết Bàn, vốn tịch diệt hay không sinh không diệt vốn đã có sẵn nơi chính mình, chỉ chờ chúng ta có mắt nhận ra.

Và chỉ có pháp vô vi này, chỉ an trú vào Tâm Biết Vô Vi Niết Bàn hay Tánh Biết không sinh không diệt này thì quá trình xả ly các pháp hữu vi mới có thể đi được đúng hướng.

Giờ đây chúng ta sẽ nói đến nghĩa lý của  “ Tâm Biết Cảnh” trong Kinh Đại Niệm Xứ.  

 

TÂM VÀ CẢNH  

TRONG THIỀN TỨ NIỆM XỨ

Chúng ta bắt đầu với câu nhập đề của kinh Niệm Xứ, và cũng là câu kết luận của bài kinh nổi tiếng này:

“Đây là con đường độc nhất đưa đến sự thanh tịnh cho chúng sanh, vượt qua sầu não, đoạn tận khổ ưu, thành tựu chánh lý, chứng ngộ Niết-bàn – đó là Tứ Niệm Xứ”

Nếu chia thành hai phần theo cách Tâm và Cảnh thì ta có thể chia như sau:

1.      TÂM: Thanh Tịnh, Chánh Lý (Chánh Trí), Niết Bàn.

2.      CẢNH: Sầu Não, Khổ Ưu

Hay nhìn xuyên suốt cả bài kinh với “bốn nền tảng” (thân thọ tâm pháp) thì hai phần Tâm và Cảnh được chia thành:

1.      TÂM: Pháp Nhận Biết, Pháp Tuệ Tri

2.      CẢNH: Thân Thọ Tâm Pháp.

Trước khi đi vào sâu hơn về cách chia này, chúng tôi xin trình bày cách hiểu chủ quan về lời kinh nhập đề :

“Đây là con đường độc nhất, là cách độc nhất để giúp chúng sanh nhận ra được cội nguồn thanh tịnh nơi chính mình, thấy ra được bản tâm thanh tịnh vô vi vốn là bản chất chân thật đã có sẵn nơi chính mình. Đó cũng chính là Chân lý, là Sự Thật, là Đạo, là Niết-bàn vốn đã sẵn có nơi mỗi chúng sanh. Phật thuyết kinh này là để giúp chúng ta trực tiếp nhận ra được, thấy ra được cốt tủy ấy. Và từ ánh sáng thanh tịnh của Tánh Biết Vô Vi ấy, chúng ta nhận biết, quan sát sầu não khổ ưu, hay nói chung là tất cả các pháp hữu vi sinh diệt đang xuất hiện trong Tánh Biết đó, để vượt qua chúng, để đoạn tận chúng.

Bản chất của chúng sanh vốn đã thanh tịnh nhưng sự thanh tịnh đó vẫn còn nhiều “bịnh” bám vào nên Cái Biết thanh tịnh ấy cần phải được đánh thức và an trú vào nó để quan sát và buông xả đủ thứ “bịnh” do vô minh, ái dục gây nên. Chỉ có như vậy chúng ta mới có khả năng “không nương tựa, không chấp trước, không bám viu, không đồng hóa vơi bất cứ một pháp hữu vi sinh diệt nào trên tấm thân giả hợp này”.

Trong kinh tạng, Đức Phật nói những lời như “hãy yêu tự ngã”, “bảo vệ chính mình”, y chỉ chính mình”, nương tựa vào hòn đảo hay ngọn đèn nơi chính mình” cũng là muốn chúng ta nhận ra Bản Tâm Thanh Tịnh này.

Trở lại với hai pháp cốt lõi là vô vi và hữu vi, thì hai phần trên trong đoạn kinh mở đầu được phân thế này”

1.      TÂM VÔ VI: Thanh Tịnh – Chánh Lý – Niết Bàn.

2.      CẢNH HỮU VI: Sầu Não – Khổ Ưu.

Hay:

1.      TÂM VÔ VI: Cái Biết, Cái Tuệ Tri.

2.      CẢNH HỮU VI: Thân Thọ Tâm Pháp.

Xin trích thêm một vài ý kinh trong bài:

“Vị ấy quán tánh sinh diệt trên thân / trên thọ / trên tâm / trên pháp . . .”, nếu nhìn sâu, nhìn kỹ chúng ta luôn luôn thấy có hai thực tại cùng hiện hữu song song: phần “quán” và phần “tánh sinh diệt”. Cái gì quán? Là Tâm. Cái gì sinh diệt? Là Cảnh.

Hay:

“Vị ấy không nương tựa, chấp trước bất cứ một vật gì ở trên đời”. Pháp gì ‘không nương tựa, không chấp trước”? Pháp Tâm. Pháp gì là pháp ‘ở trên đời’? Pháp Cảnh.

Và tinh thần cốt lõi của Thiền Quán là gì? Thái độ chân chánh khi hành thiền Vipassana  là gì? Câu trả lời rất rõ ràng là: “an trú vào TÂM Biết Vô Vi và xả ly tất cả các pháp thuộc về CẢNH Hữu Vi Thân Thọ Tâm Pháp”.

(Xem chi tiết hơn về Tâm Biết Vô Vi Không Sinh Không Diệt ở đây:  https://thuvienhoasen.org/a29309/cai-biet-khong-sinh-khong-diet-trong-thien-tu-niem-xu

 

 

 

HƯỚNG VỀ TÂM NGUỒN

Tâm Biết Vô Vi còn được gọi là Tâm Nguồn (Source of Mind). Đức Phật luôn luôn dạy phải “Hướng Về Tâm Nguồn” (yoniso manasikara):

“Ngày nào còn có người biết Hướng Về Tâm Nguồn thì ngày đó Diệu Pháp chưa bị lu mờ, chưa bị biến mất”

Cụm từ Yoniso Manasikara thường được dịch là Như Lý Tác Ý, ở đây chúng tôi dịch lại sát nghĩa là Hướng Về Tâm Nguồn hay Hướng Tâm Về Nguồn (direct the mind towards the source).

(Để hiểu chi tiết hơn về Yoniso Manasikara, đây là link với giải thích đầy đủ mà chúng tôi đã viết https://thuvienhoasen.org/a28437/huong-tam-ve-coi-nguon-vo-tuong-nhu-ly-tac-y-)

TÂM CHÓI SÁNG

Pháp Vô Vi này cũng được Phật thuyết bằng nhiều cách khác nhau, Tâm Chói Sáng là một trong số đó.

Tâm này, này các Tỷ-kheo, là sáng chói, nhưng bị ô nhiễm bởi các cấu uế từ ngoài vào. Kẻ phàm phu ít nghe, không như thật rõ biết tâm ấy. Do vậy, Ta nói rằng tâm kẻ phàm phu ít nghe, không được tu tập.Bậc Thánh đệ tử nghe nhiều, như thật rõ biết tâm ấy. Do vậy, Ta nói rằng tâm bậc Thánh đệ tử nghe nhiều, có được tu tập”.

Phải chăng chỉ có những người một lòng tầm đạo, ít bụi trong mắt, nghe nhiều, khao khát với chân lý mới có thể nhận ra cái “minh tâm” vốn sẵn có này? Tâm Chói Sáng này nằm ngoài tầm với của ‘kẻ phàm phu vô văn’ nên có nhiều người không cảm được Tâm này cũng là chuyện bình thường, không có gì lạ!

Trở lại với nhứng ý mà chúng tôi có đề cập trong phần một về Pháp Thật, Pháp Giả và Phấp Bất Tử, Pháp Sinh Diệt thì câu kinh “Đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh . . .” bao gồm cả hai thực tại,cũng có thể diễn đạt bằng những khái niệm này:

1.      TÂM BIẾT VÔ VI = Thanh Tịnh – Chánh Lý – Niết Bàn = Pháp Thật = Pháp Bất Tử

2.      CẢNH HỮU VI = Sầu Não Khổ Ưu = Pháp Giả = Pháp Sinh Diệt

Và trong định nghĩa “Tâm là Sự Biết Cảnh” (Arammanan Cinteti Cittam), có động từ cinteti, nghĩa thứ nhất là ‘biết’ (know), nghĩa thứ hai là ‘chiếu sáng’ (shine) nên cũng có thể nói rằng “Tâm là Sự Chiếu Sáng Cảnh”. Cho nên người nào ‘thấy biết’ được Tâm là người đó đã thuộc vào ‘hàng ngũ’ Thánh đệ tử theo như lời kinh Phật về Tâm Chói Sáng vừa trích ở trên.

Nguyên lý vô vi – hữu vi cũng chẳng có gì mới lạ đối với Phật Giáo Việt Nam mình nói chung, nhưng chúng ta vẫn phải tiếp tục nói về nó để duy trì và bảo tồn những lời dạy vàng ngọc của Đức Thế Tôn về con đường giải thoát mà chúng ta đang được thừa hưởng đến hôm nay. Vì nếu chỉ biết một thực tại hữu vi thì chắc chắn sẽ “cốt khổ hoàn cốt khổ”, quay mòng mòng trong bàn tay thống trị của Mara, mãi lăn trôi trong tam giới luân hồi.

Tóm lại, tuy chỉ là một bài viết ngắn gọn về một vấn đề lớn, nhưng hy vọng người đọc có thể dễ dàng cảm được tầm quan trọng của hai pháp Vô Vi và Hữu Vi này.

Namo Buddaya.

Kính bút,

Minh Tuệ Đỗ Minh