CHÓI SÁNG CỘI NGUỒN TÂM
Minh Tuệ Đỗ Minh
Lời
nói đầu
Tựa sách "Chói sáng cội
nguồn tâm" dựa theo câu kinh Phật trong Tăng chi bộ kinh: “Tâm này, này các Tỷ-kheo,
là sáng chói, nhưng bị ô nhiễm bởi các cấu uế từ ngoài vào” và “Tâm này, này các Tỷ-kheo,
là sáng chói và tâm này được gột sạch các cấu uế từ ngoài vào”; (Tăng chi bộ
kinh, Chương I, Một pháp, V. Phẩm đặt hướng và trong sáng) còn “cội nguồn” là ý nghĩa của từ yoni (origin, source, foundation) trong yoniso
manasikara (xem bài Như lý tác ý).
Sau câu này, còn có thêm lời kinh “Kẻ
phàm phu ít nghe, không như thật rõ biết tâm ấy. Do vậy, Ta nói rằng tâm kẻ
phàm phu ít nghe, không được tu tập.” và “Bậc Thánh đệ tử nghe
nhiều, như thật rõ biết tâm ấy. Do vậy, Ta nói rằng tâm bậc Thánh đệ tử nghe
nhiều, có được tu tập”. (Kinh Tăng chi, Chương I, Một pháp, VI. Phẩm búng ngón tay).
Phải chăng chỉ có những người một lòng tầm đạo,
ít bụi trong mắt, nghe nhiều, khao khát với chân lý mới có thể nhận ra cái “minh tâm” vốn sẵn có này? Còn những ai
trong mắt nhiều bụi, ít nghe, không tha
thiết với chuyện thoát khổ thì “tâm chói
sáng” là điều rất xa vời, thậm chí còn buông câu "làm gì có chuyện đó”?
Để cảm nhận được ý nghĩa hai từ “chói sáng”, ta có thể liên
tưởng đến ánh sáng bên ngoài. Ánh sáng thực sự là gì? Xin mượn lý giải chuyên
môn của một nhà vật lý : “Ánh sáng là gì? Đến nay không ai trả lời được cả. Trước
hết, ta hãy biết rằng, ta không thể thấy được ánh sáng. Chỉ khi nào ánh sáng gặp phải một vật nào, khi một vật bị ánh
sáng chiếu rọi, ta mới thấy được vật đó. Điều đó có nghĩa ta không thấy được bản
thân ánh sáng, ta chỉ thấy được vật thể nằm trong ánh sáng. Đứng sau một nguồn
sáng chiếu trong không gian, ta không thấy được nó. Nhưng khi ánh sáng đụng phải
một vật, thí dụ , một vì sao, lúc đó ta thấy vật.”(Nguyễn Tường Bách, Lưới trời
ai dệt,Chương 3, trang 93, NXB Trẻ, 2004)
Điều này cũng đúng cho “tâm chói sáng”, nó có đó nhưng ta
không thể thấy được tâm này, chỉ có thể nhận ra khi “sự chói sáng” đó “đụng”
vào thế giới của hình tướng hữu vi .
Và để có thể nắm bắt phần nào về cái tâm vô
hình, vô tướng này, ta có thể “mượn” nhục nhãn và nhục nhĩ để hình dung.
Khi hướng
tầm nhìn ra bên ngoài, chúng ta thấy vật thể chuyển động, nhưng bao trùm lên những
vật thể ấy là ánh sáng, là không gian vô hình, bất động. Ánh sáng trong không
gian là hình ảnh “bất khả tư nghì” của
tâm chói sáng.
Khi hướng tầm nghe ra bên ngoài, chúng ta
nghe được những âm thanh đang rung động, nhưng dung chứa những tiếng động này
là tĩnh lặng vô biên. Sự tĩnh lặng mênh mông cũng là hình ảnh “ngôn bất khả thuyết” của tâm chói sáng.
Ánh sáng giữa không gian, tĩnh lặng giữa
không gian cũng giống như “tự tánh vốn thanh tịnh, vốn không sanh diệt,
vốn đầy đủ, không dao động”, còn vật thể, âm thanh .v..v… là vạn pháp sinh
diệt, vô thường: “tự tánh năng sanh vạn
pháp”. (Kinh Pháp Bảo Đàn)
Cũng như vậy đối với bên trong, khi hành thiền,
chúng ta “đặt niệm trước mặt”, lấy
không gian vô biên của tâm làm nền tảng để quan sát những gì sinh khởi trong
không gian đó như cảm giác, cảm thọ, suy nghĩ (thân, thọ, tâm, pháp). Tất cả những
chuyển động đó như phần tiền cảnh (foreground) đều không qua khỏi được tầm mắt của cái biết “đang đứng âm thầm,
yên lặng phía sau” như phần hậu cảnh (background). Có thể nói vui vui là dù cho vạn pháp có hiện biến cách nào cũng “chạy trời không khỏi nắng” hay “Tề thiên có bay nhảy cách nào cũng không ra
khỏi bàn tay Phật”, một hình ảnh trong phim Tây du ký.
Các
pháp hữu vi vốn như dòng đời vạn biến
này khi được quan sát với thái độ buông xả của tâm bất biến thì không gian, hay gốc rễ của ánh sáng cội nguồn sẽ dần
dần hiện ra, ngày một rõ hơn.
Khi
chúng ta có thể nhận ra nhân chứng vô hình, vô tướng, không sinh không diệt này đang quan sát tất cả những gì sinh diệt
đang nổi lên liên tục, thì ta có thể hiểu được thế nào là tâm chói sáng, vốn
luôn luôn có mặt như mặt trời, mặt trăng. “Đôi
vầng nhật nguyệt” này vẫn “rọi suốt
trăm năm” nhưng do ta không khéo để mây mù của uế nhiễm che lấp nên ánh
sáng của trăng trời vẫn mãi bị nhiễm uế lấp che.
“Do những uế
nhiễm này làm ô nhiễm mặt trăng, mặt trời không có cháy sáng, không có chói
sáng, không có rực sáng.” (Kinh Tăng chi, Chương IV, Bốn pháp, V. Phẩm
Rohitassa)
Tâm chói sáng còn được ví như một bát nước trong, khi nhìn
vào nước trong người ta có thể thấy rõ gương mặt thật của mình, hay nói cách
khác là nhận ra được “bản lai diện mục”
(original face) của chính mình.
“Ví như một bát
nước không trộn lẫn với thuốc gôm lắc, hay màu đỏ tía, hay màu xanh, hay màu
vàng. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm bóng mặt của mình, có thể như thật biết
và thấy được.” (Kinh Tương ưng, Tập V, Thiên đại phẩm, Chương
II, Tương ưng giác chi, VI. Phẩm Tổng nhiếp giác chi)
Nếu tạng Pali được xem là những lời dạy gần như
nguyên thủy của Đức Phật thì đây là những lời kinh nói về “minh tâm kiến tánh” và “bản
lai diện mục”cổ xưa và rõ ràng nhất. Và hai khái niệm này được mở rộng rất
sâu trong các tông phải Phật giáo phát triển về sau, với nhiều cách nói khác
nhau nhưng cùng một ý nghĩa như: chân
tâm, tự tánh, giác tánh, phật tánh v.v..
Bát nước trong và uế nhiễm, vàng ròng và tạp chất,
mặt trăng và mây che … là những ví dụ thường được Phật sử dụng để nói về sự
chói sáng của tâm vô vi và những pháp che lấp (triền cái) thuộc hữu vi đã làm mờ
bản chất chói sáng đó. Đây là hai tầng của thực tại, một tuyệt đối, một tương đối.
Thực tại hai tầng, twofold reality, gồm vô vi và hữu vi hay vô tướng và hữu tướng. Vô tướng là hư mà
thực, hư vì không thể nhận biết bằng giác quan, thực vì không có tuổi thọ nên
không già không chết, không diệt không sinh. Hữu tướng là thực mà hư, thực vì
có thể nhận biết bằng giác quan, hư vì có tuổi thọ nên phải chịu sự chi phối của
qui luật vô thường sinh diệt.
Dù cụm từ “tâm chói
sáng” cũng chỉ là một khái niệm để chỉ cho bản chất chân thật, không sinh
không diệt của Tánh Biết, nhưng ánh sáng là một “ngón tay” rất tuyệt vời để dễ
nắm bắt được ý nghĩa của cái tâm rỗng không, có khả năng đâm thủng vô minh này. “Ánh sáng” vốn “không có gì”, cũng giống như
“hư không” hay “tịch lặng”, nên những khái niệm này có thể được dùng thay thế
cho nhau để chỉ về một thực tại tuyệt đối, thường hằng, vốn nằm sẵn nơi mỗi
chúng sanh như kho báu.
Hai chiều của Thực tại này - Thực tại tuyệt đối, vô vi giới, hay thực tại
tương đối, hữu vi giới – cũng đã được Phật giảng rõ ràng cách đây hơn hai ngàn
năm trăm năm :’Này, Ananda, có hai giới
này: hữu vi giới và vô vi giới. Này Ananda, cho đến khi biết được, thấy được
hai giới này, cho đến mức độ như vậy, này Ananda, là vừa đủ để nói: ‘Tỷ kheo
thiện xảo về giới’. (Kinh Trung bộ 115, Kinh Đa giới). Như vậy, một người ‘khéo tu’ muốn thành tựu được pháp cao
thượng chắc chắn phải có cái nhìn chính xác và toàn diện cả hai thực tại này,
phân biệt đúng đâu là thực, là chân thật, đâu là hư, là không chân thật để biết
cách đặt tâm đúng hướng.
Không chân, tưởng chân thật
Chân thật, thấy không chân
Chúng không đạt chân thật
Do tà tư tà hạnh
(Pháp cú 11)
Chân thật, biết chân thật
Không chân, biết không chân
Chúng đạt được chân thật
Do chánh tư, chánh hạnh
(Pháp cú 12)
Pháp chân thật là
pháp bất tử, không sinh không diệt, là cội nguồn để khởi sanh pháp sanh diệt, vốn
không thật, không chân. Pháp sinh diệt là tấm thân ngũ uẩn, vốn vô thường, khổ và vô ngã, còn pháp bất tử
là tâm chói sáng bất động, đang quan
sát, nhận biết pháp sinh diệt ấy.
Ai sống một trăm năm
Không thấy pháp sinh diệt
Tốt hơn sống một ngày
Thấy được pháp sinh diệt
(Pháp cú 113)
Ai sống một trăm năm
Không thấy câu bất tử
Tốt hơn sống một ngày
Thấy dược câu bất tử
(Pháp cú 114)
Nếu
chiều vô biên vô lượng của vô tướng vi tế
này không được ‘thấy biết’ bằng pháp nhãn, nếu chỉ nhìn được chiều hạn lượng hữu
biên của hình tướng không thôi thì bức tranh
tròn đầy hoàn hảo vốn sẵn có của thực tại sẽ không được cảm nhận đầy đủ
khi tâm với nhục nhãn, nhục nhĩ, … thật giới hạn, chỉ biết hướng về những đối
tượng thô thiển của giác quan. Phải chăng cách nhìn chỉ “một nửa thực tại” chính là “phi như lý tác ý” ? là “không chơn chánh hướng tâm” ?
Không
gian vô hình vô tướng không dễ để ghi nhận, nhưng khi có thể ‘cảm’ được chiều
kích ‘ẩn tàng’, chìm sâu’ và ‘tĩnh lặng’ này, chúng ta sẽ có được một góc nhìn
quân bình, thuần tịnh từ một nơi không có tướng. Cách nhìn này giống như cách
nhìn của loài chim khi bay trên cao hay cách vận hành của vệ tinh khi quan sát
thời tiết khí tượng trên trái đất. Tâm biết cách chánh niệm là tâm không trú
trên bất cứ ‘tướng chung, tướng riêng’ nào khi quan sát toàn diện tiến trình
sinh diệt vô thường của danh sắc hữu vi : chuyển động của thân, rung động của
thọ, dao động của tâm và vận hành của pháp.
Chánh
niệm an trú theo cách này là chánh niệm mang hình ảnh của mặt trời , vừa sinh động
vừa bất động, vừa tỏa sáng vừa đứng yên. Đó cũng là tinh thần của câu kinh ‘Vị ấy không nương tựa, không chấp trước bất
cứ vật (tướng) gì ở trên đời’ (Kinh Tứ niệm xứ), được lập lại rất nhiều lần
trong kinh Đại niệm xứ. Và khi quán pháp, hành thiền với góc nhìn khách quan
không dính mắc này, tiến trình buông bỏ, nhàm chán, ly tham sẽ tự động xảy ra.
Tâm thiền quán phải là tâm mở rộng, không phải mở rộng đối
tượng mà là mở rộng ‘bầu trời’ bao trùm tất cả các đối tượng đang xảy ra trong
giây phút hiện tại. Đây chính là tuệ tri,
cái biết không có khái niệm chen vào để bóp méo thực tại, không bị pha tạp
bởi sắc màu rối ren của vọng tưởng, hý luận. Tâm được đặt đúng theo hướng này rất
dễ dàng nhận ra ‘bộ mặt thật’ của các pháp hữu vi.
Khi
nói đến giây phút hiện tại là nói đến chiều kích không-thời-gian (akaliko, timeless), vô sanh bất diệt. Thời gian quy ước chỉ gồm quá khứ và tương lai,
chiều kích của ảo tưởng, có diệt có sanh. Tâm hướng về không gian, tịch lặng vô
tướng mới chính là tâm hiện tại trong ý nghĩa sâu thẳm phi-thời-gian của nó.
Trên
đường học pháp, người viết tâm đắc nhất với định nghĩa của Eckhart Tolle về phút
giây hiện tại: “Phút giây hiện tại là
không gian trong đó mọi thứ đang xảy ra” (The now is the space in which
everything happens) (Sức mạnh của tĩnh lặng, chương 4, trang 61, NXB Tổng hợp,
2012); hay khi nói về quan hệ giữa nhận biết và suy nghĩ: “Nhận
thức là không gian mà qua đó ý nghĩ có thể xảy ra, là không gian khi không gian
ấy có ý thức về chính nó” (Awareness is the space in which thoughts exist when
that space has become conscious of
itself )(Thức tỉnh mục đích sống
chương 9, trang 332, NXB Trẻ, 2013)
Chữ quan trọng ở đây
là “không gian”, thuộc chiều sâu vĩnh hằng, phi-thời-gian, dung chứa “những
gì đang xảy ra” thuộc hữu vi, sinh diệt, đang xuất hiện trên bề mặt.
Con đường xuôi về Niết-bàn giải thoát bao giờ cũng là hướng
về hiện tại, hướng về vô tướng, hiện hữu ngoài thời gian:
Quá khứ đã qua rồi
Tương lai lại chưa đến
Chỉ có pháp hiện tại
Tuệ quán chính ở đây
(Kinh Trung bộ 131, Kinh Nhất
dạ hiền giả )
Pháp triển “trí tuệ trực giác”,
nhận biết “cái đang là” không có khái niệm,
là mục tiêu của thiền quán. Để kinh nghiệm được cái biết không khái niệm
(non-conceptualized awareness), nhận ra được những khoảng trống giữa những tư
tưởng (gap/interval between thoughts) là
một cách rất hay. Chương V của sách dành cho kỹ thuật này.
Bậc trí theo tuần tự
Từng sát na trừ dần
Như thợ vàng lọc bụi
Trừ cấu uế nơi mình
(Pháp cú 239)
Kinh nghiệm
được những khoảng trống giữa dòng tâm thức là chúng ta đang bước vào cảnh giới
của “ly ngôn”, “ly tự”.
Ước vọng pháp ly ngôn
Ý cảm xúc thượng quả
Tâm thoát ly các dục
Xứng gọi bậc Thượng lưu
(Pháp cú 218)
Và phải chăng khi Đức Phật dạy “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi” chính
là khuyên chúng ta nên nhận ra được “tâm cội nguồn chói sáng” này? Hay “Hãy lấy mình làm nơi nương tựa…Hãy lấy Pháp
làm nơi nương tựa, không nương tựa vào bất cứ gì khác” (Kinh Trường bộ
16, Kinh Đại Bát Niết Bàn) cũng là ý như
vậy, Pháp là chân lý, hãy nương tựa vào ánh sáng của chân lý đã có sẵn bên
trong của mỗi chúng ta ?
Ngoài những lời vàng của Phật trong kinh tạng
Pali và những bài pháp ngắn nói về hai
thực tại của một số vị thiền sư có nhiều kinh nghiệm trong cách nhìn này, Tập sách này còn có những bài viết của chúng
tôi biên soạn nói lên cách hiểu kinh Phật, nhất là kinh Tứ Niệm Xứ bằng con mắt nông cạn của riêng mình. Do không
có điều kiện để xin phép tác giả cùng dịch giả, nhưng vì lợi ích chung, xin được quý vị lượng thứ cho.
Trên đường về lại cội nguồn chói sáng của
tâm, người viết có những lúc ngất ngây
nên “nghêu ngao” vài bài hát kỷ niệm cho chuyến hành trình, cũng đưa vào trong
sách để ghi lại những phút giây cao hứng “ngứa cổ hát chơi”.
Nhưng có lẽ niềm vui lớn nhất là thấy được điểm
chung cốt lõi trong tất cả các truyền thồng Phật giáo, cũng như gốc rễ của các
truyền thống tâm linh nói chung; giống như những chiếc bánh kem, bên ngoài màu
sắc khác nhau nhưng chất kem của bánh thì như một.
Cầu mong cho tất cả những ai mong muốn “thoát khỏi rừng rậm” đều cảm nhận được
ánh sáng của cội nguồn tâm, sớm thấy được “nước
trong trăng hiện”.
Namo Buddhya Namo Dhammaya Namo Sanghaya.
Đồng Nai, Việt Nam
15 – 01 - 2018
Minh Tuệ Đỗ Minh