Pháp
vô vi và pháp hữu vi
Minh
Tuệ Đỗ Minh
“Đức Phật dạy những gì,
có thể dùng vài từ ngắn gọn để nói được không?”. Tất nhiên là có thể: Phật dạy
“Khổ và thoát khổ”, “Bốn sự thật”, “Tám vạn bốn ngàn pháp môn”, “Hành thiện,
không hành ác, thanh lọc tâm” v.v.. Và “Vô
vi và hữu vi” là cách bài viết này xin chọn để trả lời câu hỏi trên.
“Hướng tâm về cội nguồn
vô tướng (như lý tác ý)” vừa mới được chọn đăng có dùng nhiều từ tướng và vô tướng.
Pháp hữu vi và vô vi là một cách nói khác thay cho tướng và vô tướng. Vì vậy, bài
này trích tuyển một số pháp thoại về pháp vô vi và pháp hữu vi của hai vị thiền
sư thuộc dòng thiền Forest Tradition ở Thái lan là Ajahn Chah và người đệ tử
phương Tây đầu tiên của ngài là Ajahn Sumedho.
Trước tiên xin mở đầu với
vài dòng dài dẫn nhập.
"Các
pháp hữu-vi thật không bền vững. Nó có tánh sanh diệt là thường vì nhân sanh rồi
diệt, diệt rồi sanh, nên thường hay có sự khổ-não,. Chỉ có Niết-Bàn là pháp tịch
diệt, dứt cả pháp hữu-vi ấy được, mới có sự an vui tuyệt đối".
Câu kinh nhật tụng này đã nói lên khái quát giáo pháp về hai
sự thật của Đức Phật. Một hữu vi tương đối, do nhân duyên kết hợp, một vô vi
tuyệt đối, không có nhân duyên. Tương đối vì vô thường, sanh diệt, tuyệt đối vì
thường hằng, không sanh không diệt. Hai sự thật này có mặt ở khắp mọi nơi, ngay
cả trong tấm thân dài một trượng này. Ở đâu chẳng là không gian và vật thể, ở
đâu chẳng là tĩnh lặng và âm thanh. Lúc nào không sáng ngời ánh đuốc nếu nghe lời
Phật đã tự mình thắp lên. Ánh sáng của ngọn đuốc chính là ánh sáng vô vi như
không gian và tĩnh lặng và những gì xuất hiện trong ánh sáng đó là những pháp
thuộc hữu vi: lục trần, lục căn, lục thức. Mười tám giới này cũng giống như vật
thể và âm thanh hiện biến giữa ánh sáng nhận biết, vốn thuần khiết, an tịnh như
hư không. Ngọn đuốc đó cũng là ý nghĩa của hòn đảo trong một Phật ngôn ai cũng
biết:
“Hãy sống tự mình làm hòn đảo cho chính mình, này các Tỷ-kheo,
hãy nương tựa nơi chính mình, không nương tựa một ai khác. Hãy lấy pháp làm hòn
đảo, hãy lấy pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một điều gì khác.”
Hòn đảo để nương tựa,
pháp để nương tựa ở đây chính là Chánh niệm hay Tánh giác vô vi (unconditioned
awareness). “Ai khác” không có nghĩa là người khác mà chính là thân tâm hữu vi
này vì nó “không phải là ta, không phải của ta”. Nếu đồng hóa với cái ta hữu vi
do nhân duyên kết hợp này là đã đặt lầm nơi nương tựa. Nói khác hơn là hãy nhận ra pháp vô vi đã có
sẵn và nương tựa vào đó như một thành lũy an toàn giữa tám ngọn gió đời hữu vi
điên đảo.
Xin
cảm hứng ý này với vài câu kệ:
Ta về nương tựa chính
ta
Hư hư tánh giác bao la
vô hình
Không ai mới thực là
mình
Vô vi hòn đảo rỗng tình
mênh mông
Pháp hữu vi và pháp vô vi tồn tại trong nhau giống như bùn và
sen. Câu “phiền não tức bồ đề” hay “phật pháp bất ly thế gian giác” cũng muốn
chỉ sự không tách rời này. Khi buông bỏ được hữu vi thì vô vi sẽ xuất hiện. Như
một trang giấy đầy chữ, xóa được một chữ là một khoảng trống hiện ra, xóa nhiều
chữ thì khoảng trống rộng hơn, xóa hết chữ thì trang giấy sẽ hoàn toàn trắng.
Bậc
trí theo tuần tự
Từng
sát na trừ dần
Như thợ
vàng lọc bụi
Trừ cấu
uế nơi mình
(Pháp
cú 239)
Có người nói “Sự đơn giản là điều phức tạp nhất trên đời”
(Simplicity is the most complicated thing to achieve). Cứ thử hướng mắt vào
không gian, đừng nhìn vào vật này vật kia theo thói quen “xuôi dòng” xưa cũ,
quan sát sự “giãy giụa” khi được đưa về sự đơn giản, bình thường và trong sạch
vốn có của nó, ta sẽ hiểu sâu hơn lời Phật:
Như cá
quăng trên bờ
Vất ra
ngoài thủy giới
Tâm
này vũng vẫy mạnh
Hãy đoạn
thế lực ma.
(Pháp
cú 34)
Chúng ta có mặt trên đời này là do sự dính mắc đã quá lâu
nhưng đồng thời cũng chính là cơ hội vàng để thoát ra sự dính mắc đó, nhờ nghe
được “phật pháp nan văn”. Thoát ra được trói buộc của chấp thủ không phải là
chuyện dễ nhưng cũng không phải là bất khả thi vì đã từng có biết bao người “vượt
ngục”.
Dù biết
pháp hữu vi có bản chất vô thường, bất toại nguyện nhưng chúng ta vẫn bị “sập bẫy”
là do niềm vui hời hợt của “lạc nhỏ” từ chúng mang lại. Từ bỏ được lạc nhỏ thì
sẽ hưởng được lạc lớn hơn do sự có mặt của pháp vô vi.
Nhờ
từ bỏ lạc nhỏ,
Thấy được lạc lớn hơn,
Bậc trí bỏ lạc nhỏ,
Thấy được lạc lớn hơn.
(Kinh Pháp Cú 290)
Thấy được lạc lớn hơn,
Bậc trí bỏ lạc nhỏ,
Thấy được lạc lớn hơn.
(Kinh Pháp Cú 290)
Hay nói như thiền sư
Achan Chah:
“Buông
bỏ ít, hạnh phúc ít. Buông bỏ nhiều, hạnh phúc nhiều. Buông bỏ hoàn toàn, hạnh
phúc hoàn toàn.” (Letting go a little
brings little peace. Letting go a lot brings a lot of peace. Letting go
completely brings complete peace). Buông bỏ là không nắm giữ, không dính mắc
vào pháp hữu vi. Hạnh phúc là kết quả của sự không chấp thủ đó. Người khéo tu
là người học được nghệ thuật buông bỏ hay phá chấp, nhất là chấp vào tầm thân
ngũ uẩn này. Nếu tấm thân tứ đại hữu vi này ví như ngôi nhà thì
chúng ta phải là kẻ theo Phật làm “phá gia chi tử”.
Ôi người
làm nhà kia
Ta tìm
nhưng chẳng gặp
Ngươi
không làm nhà nữa
Đòn
tay ngươi bị gãy
Kèo cột
ngươi bị tan (Pháp cú 153)
Trên con đường thể nhập
“cứu cánh vô vi”, giai đoạn cuối của công cuộc “phá nhà” được diễn tả rất đẹp
trong phần Chánh Định (samma samaddhi), hay Thánh định, Tứ thiền siêu thế. Đây
là những chặng cuối bước vào sự an tịnh trầm lặng, không động không rung chuyển
của bậc thánh. Mỗi chặng đều bắt đầu bằng những từ khác nhau như “ly”, “xả”,
“diệt” nhưng đều có cùng một nghĩa là buông bỏ.
“Ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền
thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Diệt tầm và
tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm,
không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc
thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba. Xả lạc,
xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ từ trước, chứng và trú Thiền thứ tư không khổ
không lạc, xả niệm thanh tịnh”.
Những trạng thái
này là kết quả chứng nghiệm cuối cùng của quá trình “tháo chốt nhổ đinh”, giống như trang giấy trắng chào vĩnh biệt những
con chữ cuối cùng rơi ra khỏi nó để trở về thuở tinh khôi không chữ ban đầu. Bởi
vậy tâm giải thoát còn được gọi là “tâm nguyên thủy” (original mind) hay “sơ
tâm” (beginner’s mind). Thơ thiền Việt Nam có chữ “vô tâm” (no-mind, zero
mind) trong “đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền”
cũng là ý này.
Người
viết thỉnh thoảng hứng bút viết về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng chính vì nhận ra
ý thiền chứa đựng chiều kích vô vi trong những câu chữ của ông. Hãy nghe thử một
đoạn trong tùy bút Mở theo lời điệu:
“Có kẻ đứng trước bao la mà không thấy được bao la. Có kẻ ở
buổi bình minh nghe tiếng chim hót đã chạm mặt với cõi vô lượng. Biết được vô
lượng là cùng lúc đến với vô biên. Cái vô biên nằm đâu đó trên cánh vạc chở hoàng
hôn về núi mỗi chiều.”
Tiếng
chim hót buổi bình minh là âm thanh hữu vi vang lên một thời gian ngắn rồi lại
rơi vào sự yên lặng vô lượng mênh mông của vô vi “không có gì”. Cánh vạc buổi
hoàng hôn là vật thể hữu vi xuất hiện trong thoáng chốc rồi lại chìm giữa không
gian vô biên trống rỗng của vô vi “không hình tướng”.
Người
có một tấm lòng không ai không công nhận giá trị của những thông điệp yêu
thương mà người nhạc sĩ này đã để lại cho đời. Nhưng còn thông điệp tâm linh
sâu thẳm thì không nhiều người cảm được. “Trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ”
(sống một đời nhưng chưa hề nhận ra được sự vô biên của không gian và tĩnh lặng
vốn là pháp vô vi) trong bài Một cõi đi về là một trong số thông điệp quý giá
đó. Phải chăng đây là cảnh “vô duyên đối diện bất tương phùng”? Vầng nhật nguyệt
vẫn rọi suốt trăm năm nhưng có mấy ai thấy được ánh sáng đó, và thế là cứ “đi
đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt”. Loanh quanh giữa hữu vi, hững hờ với vô vi
thì làm sao đời vui cho đặng. Nếu chiều sâu này được khai mở thêm và có thể “lọt
vào mắt xanh” của ai đó trong số những người yêu quý Trịnh để họ có thể thấy
bóng hình của Phật thì thật quả là vui. Chắc chắn cuộc sống sẽ thơm hơn khi có
thêm một làn hương ngọt!
Sau
đây xin được giới thiệu một số pháp thoại ngắn của hai vị thiền sư Ajahn Chah
và Ajahn Sumedho.
(Ajahn Sumedho, Tâm và Đạo, chương 8, Susanta
Nguyễn dịch Việt))
Giáo lý của Đức
Phật rất đơn giản vì Đạo Phật xem tất cả càn khôn vũ trụ hay vạn pháp được chia
làm hai: pháp điều kiện và pháp không điều kiện. Pháp điều kiện hay pháp hữu vi
là pháp sinh rồi diệt. Pháp điều kiện gồm tất cả những gì chúng ta thấy và biết
được qua sáu giác quan, qua sự tiếp xúc của cơ thể, cảm thọ, tư tưởng, và trí
nhớ. Chúng là những điều kiện hay duyên; chúng bắt đầu rồi chấm dứt, sinh rồi
diệt. Trong tiếng Pali, từ sankhara hay hành (các pháp do các
điều kiện hay duyên hợp lại và tạo thành) được dùng để chỉ các pháp điều kiện
hay pháp hữu vi. Sankhara bao gồm tất cả những gì sinh rồi diệt, cho dù
đó là vật chất hay tâm. Chúng ta không nên thắc mắc nghi vấn là các pháp được
sinh ra ở đó hay ở đây, các pháp sinh rồi diệt trong chớp mắt hay trong nhiều
đời nhiều kiếp. Trong khi hành thiền, vấn đề nầy không quan trọng và sẽ không
có sự khác biệt nào cả vì tất cả pháp hữu vi đều bị giới hạn bởi thời gian.
Pháp không điều kiện hay pháp vô vi là cái mà phần lớn chúng sinh đều không
nhận thức được. Lý do chính là vì họ vẫn mãi mê trong các pháp điều kiện hay
pháp hữu vi. Muốn nhận thức hay chứng ngộ được pháp không điều kiện chúng ta
phải dứt khoát và triệt để buông bỏ các pháp điều kiện.
Các pháp không điều kiện giống như không gian trong một căn phòng. Khi bạn
bước vào một căn phòng, bạn chú ý đến phần không gian hay khoảng trống của căn
phòng hay bạn bị thu hút bởi những đồ đạt trong phòng? Dĩ nhiên, bạn sẽ chú ý
đến bức tường, cửa sổ, con người, bàn ghế, màu sắc, và các đồ vật trang trí.
Nhưng không gian của căn phòng thì ít ai nhận thấy mặc dù nó luôn có mặt ở đó.
Và khi bận lo ngắm nhìn người và đồ vật trong phòng, chúng ta sẽ không thể nào
ghi nhận được khoảng không gian trong phòng. Chỉ khi nào chúng ta buông bỏ tất
cả những tư tưởng, lời nói, lo toan, và tưởng tượng, thì lúc đó chúng ta mới có
thể ý thức và nhận ra được không gian trong căn phòng. Khi để tâm chú ý đến nó,
chúng ta sẽ thấy rằng không gian là rất bình yên và bao la. Ngay cả bức tường
của căn phòng cũng không thể chia cắt được không gian ấy.
Tâm chúng sanh cũng như thế ấy. Tâm là vô biên và vô hạn; nó có thể chứa
đựng tất cả mọi vật. Nhưng chúng ta lại tự trói buộc mình vào những điều kiện
hữu hạn của tâm như tư tưởng, quan điểm, và ý kiến. Tâm luôn có chỗ dành cho
mọi lý thuyết, ý kiến, và quan điểm; Tất cả những cái nầy là những điều kiện
sinh rồi diệt, và không có cái nào là trường tồn và vĩnh cửu. Do đó, tâm luôn
có chỗ cho tất cả mọi người và mọi vật, cho tất cả tôn giáo, quan điểm chính
trị, tư tưởng, và tất cả loại người. Nhưng con người luôn muốn kiểm soát, giới
hạn, và tuyên bố: "Chỉ có những người nầy mới được chấp nhận, còn những
người kia không có quyền ở đây." Trong quá trình sở hữu, chiếm đoạt, và
bám víu, chúng ta tự trói mình vào những điều kiện và chính những điều kiện nầy
sẽ dẫn chúng ta đến chỗ diệt tận và phiền não.
Bất cứ cái gì mà chúng ta hy vọng và mong đợi, nếu chúng ta bám víu vào
chúng, sẽ đưa chúng ta đến chỗ thất vọng và sầu não. Lý do chính là những gì mà
chúng ta bám víu và dính mắc đều sinh rồi diệt. Không có cái gì được sinh ra mà
sẽ tiếp tục sinh ra mãi mãi; nó có thể sinh ra và tồn tại trong một thời gian
nào đó nhưng rồi sẽ hoại diệt. Vì thế nên khi bạn bám víu vào bất cứ điều kiện
nào đang sinh khởi, chắc chắn nó sẽ đi cùng với bạn đến chỗ hoại diệt. Khi bạn
bám víu vào cái gì đang sinh khởi như thân thể của bạn hay bất cứ điều kiện tự
nhiên nào, nó sẽ đưa bạn đến chỗ diệt tận. Và vì thế, sự hoại diệt hay sự chết
là điểm cuối cùng của cái được sinh ra, và nỗi tuyệt vọng sầu não là mặt trái
của niềm hy vọng và mong đợi.
Khi một cái gì đó bắt đầu trở nên khó chịu hay bất toại nguyện, chúng ta có
khuynh hướng chạy đi tìm một điều kiện khác, đang sinh khởi và thoải mái hơn.
Điều nầy khiến cho cuộc sống của con người trở thành một cuộc tìm kiếm và săn
đuổi không ngừng chạy theo những khoái lạc, những mối tình lãng mạn, và những
cuộc phiêu lưu đầy mạo hiểm. Con người luôn luôn chạy theo những gì hấp dẫn và
lý thú, làm cho họ mê đắm và trốn chạy khỏi những gì đối nghịch lại họ. Chúng
ta trốn tránh sự nhàm chán, tuyệt vọng, già, bệnh, và chết vì đây là những điều
kiện mà chúng ta không muốn xảy đến cho chúng ta. Chúng ta muốn chạy trốn, quên
bẵng đi, và không để ý đến chúng.
Nhưng trong khi hành thiền, thái độ chính là sự chấp nhận, nhẫn nhục và
nhẫn nhục đến tận cùng với những điều kiện, cho dù những điều kiện nầy đang trở
nên khó chịu và nhàm chán. Nếu chúng ta luôn muốn đi tìm một cái gì đó lý thú
và hấp dẫn hơn, chúng ta sẽ tiếp tục đi vòng vòng. Đây chính là vòng luân hồi
sinh tử (Samsara) mà Đức Phật đã chỉ ra cho chúng ta.
PHÁP HỮU VI VÀ PHÁP VÔ VI (2)
(Ajahn
Sumedho, Tâm và Đạo, chương 10, Susanta Nguyễn dịch Việt)
Chúng ta phải biết rằng những lo sợ và nhận thức
của chúng ta chỉ là những điều kiện hay những gì do nhân duyên tạo thành. Chúng
không phải là sự thật tuyệt đối. Trong quá trình phát triển tâm linh, chúng ta
sẽ tiến đến một trạng thái quân bình khi nhận ra rằng những gì sinh khởi trong
tâm chỉ là những điều kiện do nhân duyên tạo thành; điều nầy có nghĩa là chúng
bắt đầu rồi chấm dứt. Cho dù chúng là những điều kiện vật chất hay tinh thần,
chủ thể hay khách thể, chúng đều có cùng những tính chất, đó là vô thường, bất
toại nguyện, và vô ngã.
Pháp vô vi hay pháp không điều
kiện là cái mà bạn không thể hiểu bằng khái niệm vì tất cả những khái niệm đều
thuộc về các pháp hữu vi hay các pháp điều kiện. Pháp vô vi là cái mà bạn phải
trực nhận. Niết Bàn là pháp không điều kiện, vì thế nên khi nói chúng ta hướng
về Niết Bàn, điều nầy có nghĩa là chúng ta hướng về các pháp vô vi hay các pháp
không điều kiện.
Thế thì pháp vô vi là gì? Bạn
không thể thấy, ngửi, nếm, xúc chạm, nghe, hay suy nghĩ về pháp vô vi nhưng nó
là nơi mà tất cả pháp hữu vi hội tụ về. Nó không thuộc về cảm giác. Nó là sự an
tịnh. Nó không sinh khởi hay hoại diệt, không có sự bắt đầu hay chấm dứt. Chính
nó là cội nguồn mà từ đó tất cả các pháp hữu vi được sinh khởi. Khi để tất cả
sự việc hiện lên trong tâm và ra đi, bạn đang để cho chúng trở về với pháp vô
vi hay pháp không điều kiện.
Thế thì mục tiêu tối hậu của con
người là thấy và biết rằng các pháp điều kiện chỉ là những điều kiện, và pháp
không điều kiện chỉ là pháp không điều kiện. Mục tiêu tối hậu của con người là
trở thành chính sự biết và thấy đó. Nói khác đi, mục tiêu tối hậu của chúng ta
là chánh niệm. Đó không phải chỉ là một niềm tin tôn giáo, đó là cái mà chính
bạn phải thực hành -- và không ai có thể làm thế điều nầy cho bạn. Và đạo Phật
là chiếc xe, là quy ước, là cách thức, là truyền thống giúp bạn phá vỡ và đi xuyên
qua những ảo tưởng, thoát khỏi những trói buộc của những điều kiện của thế giới
luân hồi sinh tử. Khi thấy được pháp không điều kiện, hay pháp vô vi, hay Niết
bàn, lúc đó, bạn đang ở trạng thái vô sanh và bất tử.
THẤY ĐƯỢC BẢN CHẤT THẬT SỰ CỦA
CÁC PHÁP HỮU VI
(Ajahn
Sumedho, Tâm và đạo, chương 7, Susanta Nguyễn dịch Việt)
Đức Phật dạy cho chúng ta thấy là tất cả điều kiện
hay các pháp hữu vi là vô thường (tiếng Pali là sabbe sankhara anicca).
Khi nói đến từ "điều kiện", "duyên", hay "hành"
(tiếng Pali là sankhara), chúng tôi muốn nói đến một cái gì đó được
thiết lập trong tâm hay sự thành hình của một trạng thái tâm, chẵng hạn như sự
thành hình của một tư tưởng hay ý kiến trong tâm thức chúng ta.
Đàn ông và đàn bà là những điều
kiện hay duyên. Người Do Thái và người Gentiles, tín đồ Phật giáo và tín đồ
Thiên chúa giáo, người Á châu và người Âu châu, người Phi Châu, giai cấp công
nhân, giai cấp trung lưu, giai cấp thượng lưu -- tất cả những cái nầy chỉ là
những điều kiện hay những duyên đi qua tâm chúng ta. Chúng không phải là những
sự thật tuyệt đối. Chúng chỉ là những phương tiện mà con người dùng để truyền
thông với nhau. Trong cuộc sống, chúng ta phải sử dụng những phương tiện truyền
thông nầy, nhưng chúng ta cũng phải biết rằng chúng chỉ là những cái được con
người chế đặt chứ không phải là những sự thật tuyệt đối. Biết được điều nầy,
tâm của chúng ta sẽ không bị kẹt hay dính mắc vào những quan điểm hay ý kiến.
Quan điểm hay ý kiến sẽ chỉ được nhìn như là những điều kiện hay duyên được
sinh khởi rồi diệt đi trong tâm chúng ta, vì bản chất thật sự của chúng là sinh
và diệt. Tất cả duyên hay điều kiện là vô thường, đều sinh rồi diệt.
Đức Phật cũng dạy rằng tất cả các
pháp là vô ngã (tiếng Pali là sabbe dhamma anatta). Điều này có
thể hơi khó hiểu cho người bình thường, nhưng khi hành thiền nhiều hơn và khi
thấy được bản chất của các pháp, chúng ta sẽ thấy rõ rằng tất cả các pháp là vô
ngã. Chúng ta sẽ thấy không cần phải đồng hóa và tùy thuộc vào một điều kiện
hay một địa vị nào đó. Chúng ta sẽ thấy không cần phải tìm hiểu xem chúng ta là
ai, phải đặt cho chúng ta một tên gọi, hay phải đồng hóa với bất cứ cái gì ở
trên đời nầy. Đây chính là sự tự do, sự giải thoát khỏi những dính mắc và luyến
ái và sự tự do nầy sẽ đưa chúng ta đến Niết Bàn.
Càng tiếp tục hành thiền, chúng
ta sẽ ngày càng ý thức nhiều hơn về sự thật đang hiển lộ và phơi bày trong hiện
tại. Trong đạo Phật, chúng tôi gọi sự thật này là Pháp và Pháp sẽ ngày càng có
nhiều ý nghĩa hơn đối với chúng ta. Quán tưởng Pháp là rất hữu ích vì Pháp là
bao gồm tất cả, cả pháp hữu vi lẫn pháp vô vi, cả pháp hữu hạn lẫn pháp vô hạn
hay pháp bất tử. Khi hiểu được Pháp, chúng ta sẽ không đứng về phía bên nầy
hoặc bên kia: Chúng ta không chối bỏ Pháp hữu vi để bám vào Pháp vô vi. Tuy
nhiên, khi không còn chấp vào Pháp hữu vi, thì cái còn lại với chúng ta sẽ là
Pháp vô vi hay Pháp bất tử. Do đó, người có trí tuệ sẽ nhận chân được rằng bản
chất của Tục đế hay cái thực tế mà con người chế đặt ra là vô thường, bất toại
nguyện, và không có tự ngã (đây là ba tính chất của tất cả những hiện tượng do
duyên sinh hay các pháp hữu vi) và vị đó sẽ đủ tỉnh giác để buông bỏ các pháp
hữu vi nầy.
Samsara hay Luân hồi
là tình trạng trong đó con người bị dính mắc, chấp trước, và đau khổ. Khi còn
kẹt trong luân hồi, chúng ta sẽ thường thốt lên những câu như, "Ước gì tôi
đã không nghĩ như thế. Ước gì tôi không gặp những khó khăn nầy. Tôi ghét điều
nầy. Tôi lo sợ điều nọ. Tôi không thích cái nầy. Tôi không nên như thế nầy. Anh
không nên như thế đó." Những tiếng nói nho nhỏ nhưng đầy rên xiết, đầy
khát vọng chiếm đoạt và kiểm soát, đầy lo âu và sợ hãi, và tham đắm nầy chính
là Luân hồi. Khi bị dính mắc với tất cả những thứ ấy, bạn đang ở trong Luân
hồi. Luân hồi là cảnh giới của khổ đau. Niết Bàn là cảnh giới của tự do và giải
thoát xuất phát từ trạng thái không dính mắc và buông bỏ. Khi chúng ta quán sát
và nhận ra được những gì đang xảy ra trong tâm, cho dù đó là tiêu cực hay tích
cực, phê phán hay tán dương, như chỉ là những điều kiện sinh rồi diệt, thì đó
chính là Tâm Phật, Phật tính, hay Tánh giác; đó cũng chính là Niết Bàn.
RỖNG
KHÔNG - KHÔNG ĐIỂM TỰA
(Ajahn
Chah, Suối nguồn tâm linh, Chương 29, Minh Vy dịch Việt)
Chúng
ta sống trong một căn nhà. Để rời khỏi nhà và đến một nơi không có nhà – chúng
ta không biết phải làm như thế nào, bởi vì chúng ta đã quen sống với sự tồn tại,
với sự dính mắc. Nếu chúng ta không thể dính mắc, chúng ta không biết phải làm
gì.
Cho
nên đa số người không muốn đi đến Niết bàn, bởi vì không có gì ở đó, không có
gì cả. Hãy xem xét cái mái nhà và cái sàn nhà ở đây. Một thái cực là mái nhà,
đó là một “điểm tựa”. Một thái cực khác là sàn nhà, và đó là một “điểm tựa “
khác. Nhưng khoảng không gian ở giữa mái nhà và sàn nhà thì không có chỗ để đứng.
Người ta có thể đứng trên mái nhà, hay trên sàn nhà, nhưng không thể đứng trong
cái không gian trống rỗng đó. Nơi nào không có điểm tựa, không có một thứ gì để
nắm giữ, nơi đó có sự rỗng không. Và Niết bàn là sự rỗng không này.
GHI NHẬN KHÔNG GIAN
(Ajahn
Sumedho, Tâm và Đạo , Chương 11, Susanta Nguyễn dịch Việt)
Trong khi hành thiền, chúng ta tỉnh thức và chú tâm;
chúng ta lắng nghe và sống với giây phút
hiện tại như nó đang xảy ra, và chỉ lắng nghe thôi. Những gì chúng ta làm trong
khi hành thiền là chánh niệm và tỉnh giác về những gì đang xảy diễn, ghi nhận
không gian và các sắc pháp nằm trong không gian đó, nói khác đi, chúng ta ghi
nhận cả hai -- thế giới không điều kiện hay pháp vô vi và thế giới điều kiện
hay pháp hữu vi.
Như đã đề cập, chúng ta có thể ghi nhận không gian trong một căn phòng. Có
lẽ phần lớn người đời không để ý đến không gian; họ thường chỉ ghi nhận những
sự vật có mặt và được bày biện trong căn phòng chẳng hạn như những con người,
các vách tường, sàn nhà, bàn ghế. Nhưng để ghi nhận được không gian trong căn
phòng, chúng ta phải làm gì? Chúng ta phải thôi không chú ý đến các đồ vật có
mặt trong phòng, và để tâm chú ý đến không gian trong phòng.
Điều nầy không có nghĩa là chúng ta quăng bỏ hết đồ
đạc trong phòng ra ngoài, hay không cho bày biện các đồ đạc trong phòng. Nó chỉ
có nghĩa là chúng ta thôi không tập trung chú ý đến các đồ vật nữa, không dán
mắt vào hết cái nầy đến cái khác mà thôi.
Không gian trong phòng rất là bình an và tĩnh lặng.
Những đồ đạc trong phòng có thể kích thích chúng ta, làm chúng ta ham thích,
chán ghét, hoặc bị lôi cuốn quyến rũ, nhưng không gian thì không như thế. Mặc
dù không gian không thu hút sự chú ý của chúng ta như các đồ đạc trong phòng,
nhưng chúng ta vẫn có thể ý thức và tỉnh giác trọn vẹn về sự hiện diện của nó,
và chúng ta chỉ có thể ý thức về nó khi không còn bị thu hút bởi các đồ vật bày
biện trong phòng.
Khi quán tưởng về không gian trong căn phòng, chúng ta
sẽ cảm thấy bình yên và lắng dịu vì tất cả không gian đều giống nhau; không có
sự khác biệt giữa không gian chung quanh bạn và không gian chung quanh tôi. Nó
không phải là của riêng tôi; Tôi không thể tuyên bố, "Không gian nầy là
thuộc về tôi" hay "Không gian kia là thuộc về bạn."
Không gian luôn luôn có mặt ở đây. Nó tạo điều kiện
cho chúng ta được gần nhau, tụ họp lại nhau trong căn phòng, trong phần không
gian bị giới hạn bởi bốn bức tường nầy. Không gian cũng có mặt ở ngoài căn
phòng; nó bao trùm toàn thể căn nhà, và cả vũ trụ nầy. Do đó, không gian không
hề bị các sự vật ràng buộc và giới hạn; nó không bị giới hạn bởi bất cứ cái gì.
Trong một góc độ nào đó, chúng ta có thể xem căn phòng nầy là cái chứa đựng
không gian, nhưng thật ra, không gì có thể chứa đựng được không gian cả, không
gian là bao la và vô tận.
Khi chúng ta
ghi nhận được không gian bao phủ chung quanh con người và các đồ vật trong
phòng, cái nhìn của chúng ta về cuộc đời nầy sẽ đổi khác và mở rộng cái nhìn về
không gian vô biên nầy là một cách tu tập để mở rộng tâm thức của chúng ta. Khi
tâm trở thành vô biên, nó sẽ có khả năng chứa đựng được tất cả sự vật. Khi tâm
thu hẹp, sức chứa của nó cũng bị thu hẹp lại. Lúc đó, nó phải tìm cách dàn xếp,
toan tính và kiểm soát mọi sự vật và đẩy ra ngoài những gì không cần thiết.
Với một cái nhìn chật hẹp, cuộc đời
của chúng ta sẽ bị đè nén, dồn ép và giới hạn; nó sẽ trở thành một cuộc đấu
tranh và vật lộn không ngừng. Nó sẽ luôn luôn bị căng thẳng vì chúng ta phải
luôn luôn tiêu phí rất nhiều năng lực để tổ chức và dàn xếp mọi việc theo một
trật tự nào đó. Nếu bạn có một cái nhìn hạn hẹp về cuộc đời, bạn sẽ tìm cách
làm cho cuộc đời đầy hỗn loạn nầy thành trật tự và ngăn nắp, và vì thế, đầu óc
của bạn sẽ luôn bận bịu, lo toan, tìm cách nắm giữ những gì bạn yêu thích và
chối bỏ những gì bạn chống ghét. Đây chính là sự đau khổ (dukkha) xuất
phát từ tâm si mê. Nó bắt nguồn từ sự kiện là chúng ta không thể hiểu được bản
chất tự nhiên của các pháp thế gian.
Trong khi đó, tâm vô biên chứa đựng tất cả. Nó giống
như không gian trong căn phòng, cho dù chúng ta đem chất vào hoặc vứt bỏ đi các
đồ vật trong phòng, nó vẫn cứ như thế và không bao giờ bị hư hại. Thông thường
chúng ta nói "có không gian trong căn phòng nầy", nhưng thật ra,
chúng ta phải nói là căn phòng nầy đang nằm trong không gian hay cả tòa nhà nầy
nằm trong không gian mới đúng. Khi tòa nhà sụp đổ và biến mất đi, không gian
vẫn ở đó. Không gian bao bọc chung quanh tòa nhà, và ngay bây giờ, chúng ta
đang dùng căn phòng nầy để chứa đựng không gian trong đó. Với cái nhìn nầy,
chúng ta sẽ có một cái nhìn mới về cuộc đời. Chúng ta sẽ thấy là có những bức
tường tạo nên hình thể của căn phòng, và có không gian. Theo một cách nhìn nào
đó thì những bức tường giới hạn phần không gian trong căn phòng. Nhưng nhìn
theo một cách khác thì chúng ta sẽ thấy không gian quả là vô tận.
Không gian là cái gì mà bạn thường không để ý đến vì
nó không thu hút sự chú ý của bạn. Nó không phải là một bông hoa tuyệt đẹp hay
một tai họa khủng khiếp; nó cũng không phải là cái gì thật đẹp hay thật xấu xa
để có thể thu hút sự chú ý của bạn. Bạn có thể bị chìm đắm trong một giây phút
nào đó bởi một cái gì đó đầy sôi nổi kích động hay khủng khiếp đáng sợ; nhưng
bạn đâu có bao giờ bị không gian làm say đắm hoặc mê lầm phải không các bạn? Để
ghi nhận được khoảng không gian, tâm bạn phải lắng xuống; bạn phải quán tưởng
về nó. Lý do là vì không gian không có những tính chất cực đoan thái quá; nó
chỉ mênh mông, bao la và trùm phủ lên tất cả mà thôi. Những bông hoa có thể rất
đẹp, với những màu đỏ rực rỡ, vàng cam và tím thẫm, với những hình thể đẹp mắt
làm cho chúng ta mê đắm. Những cặn bả và rác rến hôi thối thì thật xấu xí và
làm chúng ta ghê tởm. Ngược lại, không gian không đẹp, và nó cũng không làm
chúng ta ghê tởm xa lánh. Nó là cái gì đó rất khó ghi nhận, nhưng nếu không có
không gian, sẽ không có bất cứ cái gì khác. Chúng ta sẽ không thể thấy được cái
gì hết.
Nếu chúng ta chất đầy ấp đồ vật, hay dùng xi măng để
trám đầy căn phòng nầy, thì căn phòng sẽ mất đi không gian. Và rồi, dĩ nhiên,
chúng ta sẽ không còn bình hoa đẹp hay bất cứ vật gì khác để ngắm, cả gian
phòng sẽ trở thành một khối đồ vật hoặc một khối xi măng lớn và cứng nhắc. Nó
sẽ trở nên vô dụng phải không các bạn? Chính vì thế chúng ta cần cả hai, chúng
ta vừa cần đồ vật, vừa cần không gian trong phòng; chúng ta cần nhận rõ giá trị
của cả hai: các sắc pháp và không gian chứa đựng các sắc pháp. Cả hai cũng
giống như một cặp vợ chồng xứng đôi vừa lứa, một cuộc hôn nhân hoàn hảo, một sự
hòa hợp hoàn thiện. Chúng ta phát triển trí tuệ bằng cách quán tưởng cả hai:
các sắc pháp và không gian chứa đựng các sắc pháp ấy.
Namo Buddaya Namo Dhammaya Namo Sanghaya.
Đồng Nai, Việt Nam
01/09/2017
minhtuedominh@gmail.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét