Thứ Tư, 23 tháng 12, 2015

GIÓ ĐỜI HƯƠNG ĐẠO_ĐÓA HOA VÔ THƯỜNG

ĐÓA HOA VÔ THƯỜNG
Trịnh Công Sơn
1.
Tìm em tôi tìm
Mình hạc xương mai
Tìm trên non ngàn
Một cành hoa khôi
Nụ cười mong manh
Một hồn yếu đuối
Một bờ môi thơm
Một hồn giấy mới

Đóa Hoa Vô Thường có lẽ là một ca khúc khó “giải mã” nhất của Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Đóa hoa này có tên là Vô Thường, vì mang phận hoa nên phải chịu kiếp “sớm nở tối tàn” theo luật đổi thay của trời đất? Hay có thể là Đóa hoa bất hoại, vĩnh hằng, dù giữa vô thường vẫn không úa héo?

“Tìm em tôi tìm”, “Tìm em xa gần”, “Bỗng tôi thấy em”, “Tôi mời em về” … Những câu như thế này rất rõ để thấy được chủ để “tìm và gặp” trong tác phẩm. Em là ai? Một người con gái bình thường, thế tục? Hay một nàng thiếu nữ của đạo hóa thân? Xin được “dông dài” ở những phần sau.

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ít dùng điển tích bằng tên người, tên địa danh như Lưu Nguyễn, Thiên Thai giống Văn Cao (Thiên thai), hay Quỳnh Như, Cô Tô giống Cung Tiến (Hương xưa). Hình ảnh thường được sử dụng nhiều hơn, như “tên mục đồng”, “con ngựa hồng” nói lên hai chí hướng khác nhau cùng xuất hiện trong một con người, v.v... Chiều sâu trong nhạc Trịnh quả tình làm khó, làm choáng những người ít đọc sách xưa , nhất là sách tâm linh, tôn giáo, triết học.

Ngay từ đoạn mở đầu của Đóa Hoa Vô Thường, hình ảnh “mình hạc xương mai”, chuyên chở ý Đạo, đã hiện lên vừa đẹp, vừa khó hiểu! Mai và hạc tương trưng cho điều gì?

“Mai” làm ta nhớ đến “Tiền đình tạc dạ nhất chi mai” (đêm qua sân trước một nhành mai) trong bài thơ Cáo Tật Thị Chúng của thiền sư Mãn Giác.

Xuân ruổi trăm hoa rụng,
Xuân tới, trăm hoa cười.
Trước mắt việc đi mãi,
Trên đầu già đến rồi.
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua, sân trước một cành mai
(Ngô Tất Tố dịch)

Cành mai này là một pháp vô sinh diệt, một pháp xuất thế gian. Thiền sư đã đưa mắt nhìn tất cả các pháp sinh diệt, các pháp thế gian (xuân đi, hoa tàn, việc qua, tóc trắng) mà vẫn nhìn thấy một pháp vô sinh diệt, một pháp xuất thế gian (cành mai với tính bất hoại). Sinh tử (xuân, hoa, việc, tóc trắng) và Niết Bàn (cành mai trên đất tâm bất hoại trước thời gian).

Trong Đóa Hoa Vô Thường, Trịnh Công Sơn có viết câu “Có tôi trong dáng em ngồi trước sân”, chắc là có ít nhiều ý tứ liên hệ đến bài thơ này.

Giờ đây, chúng ta cùng đến với “Hạc” của Tản Đà và Thôi Hộ.

Đá mòn , rêu nhạt
Nước chảy , huê trôi
Cái hạc bay lên vút tận trời
Trời đất từ đây xa cách mãi
Cửa động
Đầu non
Đường lối cũ
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi .
(Tống Biệt - Tản Đà)

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu ?
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
(Lầu Hoàng Hạc - Thôi Hộ - Bản dịch của Tản Đà)

Cánh hạc, dù trắng hay vàng, vẫn thường là hình ảnh tải ý đạo rất hay. Hạc thường đi đôi với trăng và hoàng hôn. Hạc là hình ảnh của những ông tiên thoát tục, cưỡi hạc bay về chốn thanh cao, xa rời tục lụy thế gian.

Ba bài thơ vừa dẫn ở trên chỉ là một gợi ý, bạn đọc nào có hứng thú, muốn tìm hiểu sâu hơn, chỉ việc “gú gồ”, tài liệu có sẵn rất nhiều trên mạng.

Như vậy, hình ảnh “Tìm em tôi tìm, mình hạc xương mai” trong Đóa Hoa Vô Thường cho chúng ta thấy con đường tầm đạo của Trịnh. Đường tìm về với bản tâm, cội nguồn tâm thức trong trắng, thanh khiết như “cành hoa khôi”, sáng như “bờ giấy mới”, thơm như “bờ môi thơm” trong chính mình. Bởi khó tìm, nên “nụ cười” ấy rất “mong manh”, không dễ thấy. Có thấy được chăng, cũng “yếu đuối”, rất khó để duy trì sự bền vững, lâu dài.

2.

Tìm em tôi tìm
Nhủ lòng tôi ơi
Tìm đêm chưa từng
Tìm ngày tinh khôi
Tìm chim trong đàn
Ngậm hạt sương bay
Tìm lại trên sông
Những dấu hài

Đoạn hai gồm tám câu bốn chữ. Bốn câu đầu xin được diễn Nôm như thế này: “Tôi đang và sẽ mãi đi tìm Em, luôn tự nhủ rằng dù đêm hay ngày cũng không bao giờ dừng lại cuộc hành trình tìm về lại sự tinh khôi, thuần khiết của Em, của cội nguồn tâm”.

Chữ “tinh khôi” trong câu này đã được dùng trong  “cành hoa khôi” (cành hoa tinh khôi) ở đoạn một. Tính từ này đồng nghĩa với “hồn nhiên” trong “em hồn nhiên rồi em sẽ bình yên”. Có một lần Trịnh gọi cái hồn nhiên, cái tinh khôi cội nguồn này là “sự nguyên vẹn của tâm”. Bốn câu còn lại cũng rất hay, chim ngậm hạt sương và dấu hài trên sông, phần sau sẽ tiếp.

Một lần nữa, xin giới thiệu Độc Huyền của nhà thơ Phạm Thiên Thư, chuyên làm thơ về Đạo. Việc đăng nguyên bài thơ của một tác giả khác có thể hơi lan man, không tập trung vào chủ đề chính. Nhưng đây là một bài đặc biệt có nhiều điểm tương đồng với Trịnh khi gọi Tâm là Em, với “hình hài diễm lệ”, nên cũng xin được “bạo tay” vậy.

ĐỘC HUYỀN
(Phạm Thiên Thư)
Khép mắt - ta nhìn em
Thấy hình hài diễm lệ
Đứng trên ngàn sóng bể
Trấn át làn phong ba .
Tà áo trắng kiêu sa
Đôi mắt huyền như ngọc
Đôi môi thuyền độc mộc
Chở thơm khoang đào hoa
Mái tóc dài thướt tha
Cài đóa hồng tuệ nhật
Phải em - là sự thật
Từ một ngày rất xa .
Mở mắt - ta nhìn ra
Thấy em là nốt nhạc
Trên dây tình ngơ ngác
Em là một điểm âm
Em nạm vàng chữ Tâm
Trên nền đêm biêng biếc
Em là con cá diếc
Trong tim ta dòng sông.
Ẩn trong sợi tơ đồng
Ngân lên từng cung điệu
Năm ngón hồng kỳ diệu
Anh rung thành tiếng tim.
Mở mắt - ta nhìn thêm
Thấy chúng mình vô ngã
Thấy em xanh thảm mạ
Anh xoè cánh hạc bay .
Ta tình cờ ra đây
Cũng như là tất cả
Ơi! Dây tình kỳ lạ
Hội tròn một điểm ngân.

Trong Độc Huyền, chúng ta cùng rung động với những câu thơ nhẹ nhàng, yên ắng khi nói về Em chân lý. Em sự thật vốn trắng bạch như vỏ ốc, đẹp như một đóa hoa hồng dưới ánh sáng của mặt trời khi thoát khỏi mây. Em đã ở đó từ rất lâu rồi, tà áo trắng, đôi mắt, đôi môi huyền diệu, mái tóc thướt tha của Em, Một chữ tâm vàng.

Hay nói “quái” như thi sĩ Bùi Giáng:

Em ơi Em đẹp vô cùng
Vì Em có cái lạ lùng bên trong

Muốn thấy “em có cái lạ lùng” “từ ngàn xưa” này phải vượt qua được rào cản hay lớp sơn giả tạo của chữ nghĩa, ngôn từ.

Người nằm đó từ ngàn xưa vang bóng
Ta bước qua từ ngữ rụng hai lần.

Khi thấy được Em thì đời sẽ “lẫy lừng”, “líu lo” như Trịnh đã tưng bừng với “Từ nay ta đã có nàng” trong đoạn tiếp theo của Đóa Hoa Vô Thường.

3.

Tìm chim trong đàn
Ngậm hạt sương bay
Tìm lại trên sông
Những dấu hài

Tạm diễn bốn câu này như sau “Tìm cánh chim nào có ngậm hạt sương trong đàn chim đang bay. Tìm những dấu hài, dấu chân đã để lại của người xưa trên đường vượt qua bờ bên kia dòng sông tục lụy”.

Hạt sương vốn trong vắt trong veo, long lanh thuần tịnh, tinh khiết, thanh tao. Ai là người đã có hạt sương như ngọc này? Cánh chim nào có ngậm hạt sương đã từng bay qua trái đất này và đã dâng tặng cho nơi này ý nghĩa của hạt sương tuyệt vời này?

Ai biết chút ít thơ thiền đều nhớ câu thơ của Trần Nhân Tông “Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch” (trong nhà có sẵn ngọc, không cần phải tìm kiếm ở đâu xa). Viên ngọc ấy có phải là một cách nói khác của hạt sương? Thánh nhân như Phật, như Chúa là những người đã “ngậm” viên ngọc này và đã chỉ ra rõ ràng rằng trong mỗi người chúng ta viên ngọc này đều có sẵn. Tiếc thay, không nhiều người biết để có thể “ngậm” như các ngài.

Có chuyện xưa kể rằng khi Thượng Đế sáng tạo ra loài người, biết loài người rất thông minh nên sau khi bàn bạc với thần thánh trên trời về chỗ cất dấu viên ngọc đó. Đỉnh núi cao nhất? Đáy biển sâu nhất? Tất cả những nơi này đều không phải là nơi an toàn bí mật, vì loài người vẫn có khả năng tìm được. Cuối cùng quyết định đặt viên ngọc ấy vào ngay trong tâm của con người. Và rất ít người tin vào sự kỳ diệu của viên ngọc đó, không tha thiết tìm cầu, nên điều thiêng liêng ý nghĩa nhất của kiếp sống trăm năm này đã dần dần bị mai một. Phải chăng đây là ý nghĩa của “Chúa đã bỏ loài người, Phật đã bỏ loài người”?

Chúng ta đều biết nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là người mê sách. Ông đọc rất nhiều, có thể nói vui là biết nhiều đàn chim. Mỗi cuốn sách như một cánh chim mà Ông đã từng say sưa tìm trong đó hạt sương của chân lý, hạt sương của ánh sáng, tình yêu và sự thật. Những khúc Trịnh ca làm rung động biết bao trái tim cũng xuất phát từ một tâm hồn khát khao cháy bỏng với hạt sương, dấu hài.

Ai cũng đắng lòng khi đọc những dòng tâm sự: “Khi tôi yêu thương cái tuổi đời ngào ngạt hương hoa này thì đồng thời tôi cũng yêu luôn một cõi đời tôi đã mất”.

Hai câu cuối có hình ảnh “dấu hài” và “dòng sông”. Dòng sông thì có bờ bên này, bờ bên kia. Tại sao từ dấu hài được dùng mà không phải là dấu chân? Thực ra, cả hai từ này vẫn có thể thay thế cho nhau được, nhưng dấu hài gợi rõ hình ảnh tiên phong đạo cốt hơn.

Chỉ có những ai thấy được con đường thực sự đi về bến giác, qua được bờ bên kia, mới có khả năng để lại dấu hài trên những lời kinh để “chiều em ra đứng hát kinh đầu sông” mà chúng ta sẽ nghe trong đoạn bảy.

4.

Tìm em xa gần
Ðất trời rộn ràng
Tìm trong sương hồng
Trong chiều bạc mệnh
Trăng tàn nguyệt tận
Chưa từng tuyệt vọng
Ðâu em

“Sương hồng”, “ Chiều bạc mệnh” ? Thử thêm chữ sáng vào để thành “sáng sương hồng”, “chiều bạc mệnh” xem sao. Nghe cũng tạm ổn. Thời gian một ngày? Thời gian một đời? Trong hữu hạn từ  tuổi trẻ bình minh đến tuổi già bóng xế? Rất chóng vánh, tạm bợ nhưng ta vẫn tìm em, dù ở đâu, “xa” hay “gần”. Ta biết khi ta gặp em là hiểu được sự tinh khôi “rộn ràng” của “đất trời”.

Em là ai? Em ở đâu? Có phải em là “cành hoa khôi” hiếm quý “trên non ngàn” xa thẳm, tựa đóa Linh Chi nở trên núi Tuyết Sơn ngàn năm một thuở? Hay núi non, rừng rậm trong trái tim ta? Ta biết chỗ của Em rồi đây: “dưới chân cội nguồn” (đoạn bốn)! Cội nguồn vốn như hư không trống rỗng, gốc của vạn pháp, dung chứa tất cả mọi “vô thường”. Dẫu sự sống có mất đi nhưng cội nguồn đó không bao giờ thay đổi. Cội nguồn đó, viên ngọc đó nằm chính giữa tâm ta.

“Trăng tàn nguyệt tận” là một cách nói khác của “sông cạn đá mòn” mà chúng ta đã gặp trong Lặng Lẽ Nơi Này, nhưng “trăng” gợi một ý nghĩa bền vững hơn, khó cạn, khó mòn hơn sông và đá. Bền vững như thế, khó tàn, khó tận như thế, mà ta vẫn đi tìm cho đến lúc trăng không còn nữa. Quả thật, nếu hiểu sâu hơn ý tứ sau mỗi chữ mỗi câu, ta càng rung động thêm với Trịnh.

“Chưa từng” có lẽ là từ dễ thương nhất. Dù đã xuất hiện một lần trong “tìm em chưa từng” ở đoạn hai, nhưng với đoạn ba này, “chưa từng” đi theo cùng “tuyệt vọng” làm tăng thêm sự rõ ràng trước đó chưa được rõ. “Chưa từng tuyệt vọng đâu em” về sau đã trở thành “tôi ơi đừng tuyệt vọng” vang nhẹ suốt với chúng ta trong những lúc thăng trầm.

5.

Tìm trong vô thường
Có đôi dòng kinh
Sấm bay rền vang
Bỗng tôi thấy em
Dưới chân cội nguồn
Tôi mời em về
Ðêm gội mưa trong
Em ngồi bốn bề
Thơm ngát hương trầm

Mấy câu này xin được dùng văn xuôi để diễn tả ý tứ như sau “Trong biến thiên không ngừng thay đổi của vạn pháp hữu vi gọi là vô thường, tôi đã thấy được những lời kinh vang lên tiếng vọng sấm sét của người xưa. Giữa những lời kinh đó, tôi đã bất ngờ rung cảm được một đôi dòng chỉ thẳng về phía cội nguồn: “trực chỉ chân tâm”. Tôi thấy em, tôi đã thấy tôi chân thật của chính mình. Tôi trân trọng đảnh lễ cái suối nguồn xưa tinh khôi ấy, như nước mưa cam lồ gội rửa bụi trần, làm trong mát tâm tôi giữa mùi hương trầm bốn phương thơm ngát”.

Kinh như sấm ! Ai trong chúng ta cũng đã từng được nghe tiếng chuông chùa, tiếng chuông nhà thờ thanh thoát. Đơn giản là chuông thôi nhưng xao xuyến, rung động biết bao.

Hãy cảm nhận thêm bên cạnh âm thanh dịu nhẹ, chuông còn làm “giật mình” thức tỉnh qua hai câu thơ của Chu Mạnh Trinh đã viết.

Thoảng bên tai một tiếng chày kình
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng

Trong kinh Phật, lời kinh còn được ví như tiếng rống sư tử (lion’s roar). Khi chúa sơn lâm cất tiếng, mọi loại khác đều run sợ và quy phục. Khiêm tốn như chuông, mạnh cường như rống đã như vậy, nói chi tới độ rền vang của tiếng sấm mà Trịnh đã hát, đủ biết sức cảm đạo phấn khích, bay bổng như thế nào trong người nghệ sĩ này.

Đoạn bốn này vẫn còn nhiều từ hay như “gội”, gội rửa tâm cho trong (tĩnh tâm hay thanh tịnh tâm) mà sau này chúng ta nghe thoang thoảng trong câu “mười năm tắm gội, giật mình ôi chiếc lá thu phai”.

Cuối cùng, từ dịu nhất vẫn là “hương trầm”. “Hương trầm có còn đây, ta thắp nốt chiều nay” là một trong nhiều câu hát  thật xé lòng trong Ru Ta Ngậm Ngùi. Khó mà không ứa lệ khi nghĩ đến niềm hân hoan, ngây ngất xưa “em ngồi bốn bề, thơm ngát hương trầm” đã theo thời gian phai nhạt. Lồng lộng gió đời đã lấn át hương đạo ngát thơm.

Cùng ý với “hương trầm”, còn có “cành mai”, đôi khi cũng chịu chung số phận: “Hòn đá lăn trên đồi,  hòn đá rớt xuống cành mai, rụng cánh hoa mai vàng, chim chóc hót tiếng qua đời” (Ngâu nhiên).
Cành mai ngày xưa nở vàng bên tiếng chim trong trẻo, giữa trời đất rộn ràng, nay đã rụng cánh. Chim vẫn hót nhưng là tiếng hót qua đời. Nếu không cũng là “Trên giọt máu cuồng điên, con chim đứng lặng câm”. Không còn là tiếng líu lo như xưa nữa.

6.

Trong vườn mưa tạnh
Tiếng nhạc hân hoan
Trăng vàng khai hội
Một đoá hoa quỳnh

Biến động của cuộc đời có lẽ là ý nghĩa gần nhất của mưa, như “Mưa vẫn hay mưa cho đời biển động” (Diễm xưa). “Vườn mưa tạnh” là sự yên tĩnh của vườn tâm. Ai có đọc Tagore không thể không nhớ “Người làm vườn” (Gardener) rất hay của nhà thơ nổi tiếng này. Trịnh Công Sơn cũng có Vườn Xưa nói lên tâm trạng cô đơn của mình khi nhớ đến khu vườn đã từng có “nhạc”, có “trăng”, có “hoa quỳnh” thơm ngát mùi “hương trầm” mà ta đang gặp ở đây.

Khi mưa đời đã tạnh thì theo sau là “tiếng nhạc hân hoan”, cung đàn của đạo. Lời kinh vang lên như tiếng chim hót tươi vui, như nhạc trời thanh tao, trong suốt.

Đó là lúc ta “có tình”, “có người”. Lòng tựa đứa bé hồn nhiên, reo vui khi nhận quà từ tay mẹ. Nét thơ ngây này nếu để diễn tả tình yêu nam nữ thì khó chấp nhận được. Cùng nghe trước đoạn sáu.

Từ nay tôi đã có người
Có em đi đứng bên đời líu lo
Từ nay tôi đã có tình
Có em yêu dấu lẫy lừng nói thưa

“Một đóa hoa quỳnh” giữa “Trăng vàng khai hội” xin được nói thêm sau.

7.

Trăng vàng khai hội
Một đoá hoa quỳnh
Một bức tranh thật đẹp! Hoa quỳnh, hoa chung thủy, hoa của tình yêu đầu tiên và duy nhất. Loài hoa chỉ nở về đêm giữa mộng mị chìm đắm của nhân gian. Diễm kiều, lộng lẫy như nữ hoàng nhưng rất khiêm nhường, kín đáo. Hương thơm quý phái chỉ dành cho mặc khách, tao nhân.
Sau này, qua những ca khúc của Trịnh, ngoài Quỳnh Hương ra, ta cũng gặp thêm nhiều loại hoa khác như Mai, Tường Vi v.v… Hoa của Trịnh luôn luôn sáng lên một cái gì đó rất thánh thiện, cao cả. Nhạc của Ông được gọi là “kinh tình yêu” vì bên cạnh tình yêu nam nữ, còn có hương vị tình yêu của kinh, tình yêu của đạo. Cùng đọc lại mấy câu này:
Một đêm bước chân về gác nhỏ
Chợt nhớ đóa hoa Tường Vi
Bàn tay ngắt hoa từ phố nọ
Giờ đây đã quên vườn xưa
(Đêm thấy ta là thác đổ)
Chợt nhớ một người con gái xa xưa, đã từng say đắm một thời, nhưng phố nọ vườn xưa đã phai mờ trong trí ? Hay chợt nhớ những lời kinh xưa từng tìm, từng gặp nhưng giờ đây đã lãng quên? Từng câu nhẹ nhàng như thế thôi nhưng càng hát càng cứa vào lòng ta thật xoáy nhức. Hay bốn câu khác.
Em đến nơi này bao điều chưa nói
Lặng lẽ chia xa sao lòng quá vội
Một cõi bao la ta về ngậm ngùi
Em cười đâu đó đông vui
(Hoa vàng mấy độ)
Một tình yêu mới quen, chưa hiểu nhau nhiều sao đã chia xa, mà lại xa chia vội vàng, lặng lẽ ? Hay một tình yêu dành cho chân lý, mới hân hoan như khai hội ngày nào, còn nhiều điều để hiểu, để đi thêm, nhưng lại nửa chừng chóng buông, vội bỏ? Nụ cười như hoa ánh sáng của mặt trời vẫn chiếu sáng giữa chốn đông vui nhưng ta lại quay lưng hững hờ, để lúc nào cũng thốt lời ngậm ngùi giữa cõi bao la?
Rất nhiều những hình ảnh có sự đan quyện giữa hai màu sắc đạo đời thế này đã làm cho dòng nhạc Trịnh trở nên bất tử.
Mượn những bức tranh tối, buồn ở trên để cảm nhận sự thanh thoát của hoa quỳnh, tương phản, nổi bật dưới ánh trăng vàng lung linh ngày khai hội.




8.
Từ nay tôi đã có người
Có em đi đứng bên đời líu lo
Từ nay tôi đã có tình
Có em yêu dấu lẫy lừng nói thưa
Từ em tôi đã đắp bồi
Có tôi trong dáng em ngồi trước sân
Sự hồn nhiên, trong sáng của tiết tấu, giai điệu lẫn ca từ nổi lên rất rõ trong đoạn sáu này. “Có” lặp đi lặp lại như nỗi vui mừng của một người gặp được của quí sau thời gian miệt mài tìm kiếm. “Có người” là có những dòng kinh hướng đạo cho mình thấy bản chất thực của kiếp sống phù du, người đó có tên là Trí tuệ. “Có tình” là có thêm được một trái tim bác ái, bao dung, yêu thương mọi loài, tình đó có tên gọi là Từ bi. Trí tuệ và Từ bi ấy còn được gọi là “Em”, là Tâm, là Đạo.
“Em đi đứng líu lo bên đời” luôn luôn cho tôi sự thăng hoa, không phải như em tình yêu đôi lứa, cũng rất đáng yêu nhưng thường mang theo mưa nắng khó lường.
“Em yêu dấu lẫy lừng nói thưa” mãi mãi cho tôi những lời tỉnh thức, không giống như em tình yêu nam nữ, dễ làm rơi lệ buồn trên giọt máu cuồng điên.
Những chữ hay nhất ở đây là “trước sân”. Chúng ta chắc vẫn còn nhớ câu thơ “Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết, đêm qua sân trước một cành mai” của thiền sư Mãn Giác, đã được giới thiệu trong phần đầu. “Em ngồi trước sân” là cách nói gọn của “cành mai sân trước”.
Xin được trích lại một phần: “Cành mai này là một pháp vô sinh diệt, một pháp xuất thế gian. Sự có mặt của cành mai này vượt qua sự tàn phá của thời gian. Thiền Sư đã đưa mắt nhìn tất cả các pháp sinh diệt, các pháp thế gian (xuân đi, hoa tàn, việc qua, tóc trắng) mà vẫn nhìn thấy một pháp vô sinh diệt, một pháp xuất thế gian (cành mai với tính bất hoại)”
Như vậy, chúng ta dễ dàng nhận ra ý tứ của Trịnh: “Trong tôi và bất cứ ai cũng có một Em cành mai. Em này có khả năng đắp thêm sự tươi mát, bồi thêm sự phong phú trong cách nhìn, cách cảm nhận về cuộc đời”. Đừng để “Rụng cánh hoa mai vàng, chim chóc hót tiếng qua đời” (Ngẫu nhiên).






9.
Mùa đông cho em nỗi buồn
Chiều em ra đứng hát kinh đầu sông
Tàn đông con nước kéo lên
Chút tình mới chớm đã viên thành
Sáu đoạn đầu của Đóa Hoa Vô Thường, chúng ta thấy Nhạc sĩ ghi chú trên bài: Tìm tình Nhịp thong dong, Đưa tình về Nhịp hớn hở, Thanh thoảng, Bình an. Giai điệu dù có chuyển trên nhiều điệu thức trưởng (major) khác nhau nhưng chất tươi sáng của yên bình, hân hoan vẫn đậm. Đến đoạn bảy thì điệu thức chuyển qua thứ (minor), hát tự do, nghe buồn vì đây là một đoạn hồi tưởng về những ngày xưa còn bơ vơ trong mùa Đông lạnh.
Mùa Đông cho em nỗi buồn
Chiều em ra đứng hát kinh đầu sông
Ngày ấy chỉ có nỗi buồn. Mỗi ngày bên dòng sông, nhìn dòng chảy vô thường của cuộc đời, nhìn dòng sông tâm thức, “đứng hát”, đứng gẫm suy, nhưng vẫn mù tắc, chưa rạng tỏ lối đi.
Đóa Hoa Vô Thường được Trịnh viết năm 1972. Sau Mậu Thân 1968, quê hương Việt mình đầy những xác người, nhiều nhất là Huế. Vào thời điểm bi thương ấy, chứng kiến bao điêu tàn phi lý của chiến tranh, nghe kể Trịnh khủng hoảng nặng. Có thể nói đây cũng là một “mùa Đông” rất băng lạnh trong cuộc đời Ông. Nhưng rồi Đông cũng qua, con nước đến.
Tàn Đông con nước kéo lên
Chút tình mới chớm đã viên thành
“Con nước kéo lên” sau buổi “tàn đông” ấy là một sự chuyển hóa bùng vỡ cực mạnh trong cách nhìn của Trịnh về đời, về đạo. “Chút tình mới chớm” là sự khởi đầu cho những tác phẩm hay sau này. Hầu như bài nào cũng ánh lên một phần sự “viên thành” của một trái tim thanh lương, đầy tình thương và hiểu biết.









10.
Từ nay anh đã có nàng
Biết ơn sông núi đáp đền tiếng ca
Mùa xuân trên những mái nhà
Có con chim hót tên là ái - ân.
“Từ nay tôi đã có người”, “từ nay tôi đã có tình”, rồi bây giờ “từ nay anh đã có nàng”, càng lúc càng tăng lên độ nâng niu, trìu mến. Những câu hỏi tha thiết “Nàng ở nơi đâu?”, “Em ở phương nào?” cất lên đã nhận được câu trả lời. “Sự thật ở đâu?” đã được “núi sông đền đáp”.
“Tiếng ca” vang lên rộn rã khi gặp được những “dấu hài bên sông” khiến trời đất cũng “rộn ràng”. Sự trong trẻo của “Cái thuở ban đầu ngây ngất ấy, ngàn năm hồ dễ mấy ai quên” (thơ Thế Lữ, xin sửa “lưu luyến” thành “ngây ngất”) thật quá đẹp trong đôi mắt của người thấy được ánh sáng tràn vào khi cửa mở toang. “Chút tình mới chớm đã viên thành” trong đoạn trước chắc ý không khác nhiều so với “ngàn năm hồ dễ mấy ai quên”?
Sau này, trong Dấu Chân Địa Đàng, tiếng ca này đã được Trịnh nói cách khác “Tiếng ca bắt nguồn từ đất khô, từ mưa gió, từ vào trong đá xưa” và cũng ở bài hát này, tiếng ca ấy đã nhuốm màu tiếc nuối, nhạt phai.
Cuộc đời đó nửa đêm tiếng ca lên như than phiền…
Nửa đêm đó lời ca dạ lan như ngại ngùng…
Vùng u tối loài sâu hát lên khúc ca cuối cùng…
Và tiếng hát về ru mình trong giấc ngủ vùi…
Lời ca đau trên cao.
Nhưng từ vui và hay của đoạn này là “ái ân”, dễ “đánh lừa” thiên hạ. Có con chim hót tên là tình yêu, hay yêu thương gì đó thì bình thường.
Cũng tựa như Bùi Giáng, đùa cợt, ngông ngông với “cái lạ lùng”, “ái ân” có lẽ là lối dùng chữ điệu nghệ của Trịnh Công Sơn. Thường thì từ này gợi lên chút gì đó hơi hẹp hẹp, nhưng nếu hiểu “ái” là lòng từ , tình thương, tình nhân ái và “ân” là ân tình, ân nghĩa, ân đức thì đây quả là một từ hay vì nghĩa khá rộng.
Cánh chim mang tên “ái ân” nặng tình thương đời, thương người vẫn đang hót lên những âm điệu mùa xuân trên những “mái nhà” cần được thương yêu.







11.
Sen hồng một nụ
Em ngồi một thuở
Một thuở yêu nhau
Có vui cùng sầu
Từ rạng đông cao
Ðến đêm ngọt ngào
Sen hồng một độ
Em hồng một thuở xuân xanh
Sen buồn một mình
Em buồn đền trọn mối tình
Trong đoạn chín này của Đóa Hoa Vô Thường, từ cành mai ngồi sân trước đến đóa quỳnh giữa trăng rằm khai hội, ý đạo đã “lộ nguyên hình” qua dáng vẻ của “sen hồng”, một hình ảnh quá quen trong kinh Phật.
Hai hình ảnh “sen” và “em” là hai cái tôi trong một con người, “tôi sen” và “tôi bùn”, tuy hai mà một, dung chứa lẫn nhau, hòa quyện với nhau. Hay rõ ràng hơn là “tôi trên cao” và “tôi dưới thấp”. “Tôi sen” trên cao ví như dòng sông trong veo và “tôi bùn” bên dưới đầy tạp nhiễm. Hãy cùng nghe lại vài câu trong Cũng Sẽ Chìm Trôi.
Nhật nguyệt (í a) trên cao
Ta ngồi (ôi à) dưới thấp
Một dòng (í a) trong veo
Sao lòng (ôi à) còn đục
Cũng có thể nói “tôi sen trên cao trong veo” và “tôi bùn dưới thấp ngầu đục” cùng song song tồn tại trong một tâm hồn, cùng “Có vui cùng sầu” trong sáng tối, cùng hiện diện bên nhau  “Từ rạng đông cao đến đêm ngọt ngào”.
Đoạn thơ nhạc đang thơ thới, nhẹ nhàng như thế đột nhiên đổi màu ở hai câu cuối. Thật khó hiểu!
Sen buồn một mình
Em buồn đền trọn mối tình
Từ “sen hồng”, “em hồng” chuyển qua “sen buồn”, “em buồn” là một ý lạ. Tại sao sen hồng lại trở nên buồn? Sen buồn vì sự có mặt của mình không được để ý đến? Sen một nụ ngát thơm nhưng không có người chăm sóc, đẹp như thế nhưng chỉ nhận được sự hờ hững, thờ ơ? Rồi tại sao em buồn? Em buồn vì em muốn đi về phía nhân gian để “đền trọn mối tình” cho nơi ấy, nơi dù có những hương hoa ngào ngạt nhưng cũng lắm xót xa. Em biết em sẽ buồn vì xa sen nhưng “đường trần đâu có gì” phía xa xa ấy vẫn đưa tay mời gọi. Em phải “trả nợ người” thôi.
Chính cái “em buồn” này là nỗi ưu tư đầy khắc khoải của Trịnh, là niềm riêng sâu kín “tự mình biết riêng mình và ta biết riêng ta”. Ông chỉ im lặng, cô độc trải dài những điều ấy trên suốt những bài hát của mình, lấy tiếng hát vừa u trầm với đạo, vừa rạo rực với đời để mang đến sự xoa dịu cho cuộc sống vốn buồn nhiều hơn vui này.
12.
Một chiều em đứng cuối sông
Gió mùa thu rất ân cần
Chở lời kinh đến núi non
Những lời tình em trối trăn
Một thời yêu dấu đã qua
Gót hồng em muốn quay về
Dù trần gian có xót xa
Cũng đành về với quê nhà.
Hát câu “Một chiều em đứng cuối sông” mở đầu cho đoạn mười này, không thể không nhớ “Chiều em ra đứng hát kinh đầu sông” trong đoạn bảy, lúc đón kinh vào đời sau “mùa Đông” buồn. Bây giờ, cũng dòng sông ấy, không phải “đầu sông” mà là “cuối sông”, em lại đứng nhưng lần này là “mùa thu” với gió ân cần, nhờ gió “chở lời kinh đến núi non” cùng những lời tình tự của em như một lời trối cuối.
Lời trối trăng là gì? “Khi nào tình yêu với trần gian đã qua, đã cạn, em sẽ quay về quê nhà. Em biết chốn trần gian ấy có xót xa nhưng đẹp lắm, nào là tình yêu của những người con gái thật dễ thương, nào là tình bạn, tình người nồng ấm. Khi nào “ngựa hồng mỏi vó”, em sẽ rời “gót hồng” ấy để trở về mái nhà xưa thanh bình một thuở.”
Ở đoạn nhạc này, nhạc sĩ có ghi chú: “Con sóng bể dâu đã đưa tình về quê quán cũ”. Sau này, dù vẫn chưa về vì “sóng bể dâu” chưa qua, nhưng dễ dàng cảm nhận hạnh phúc của Ông khi biết rằng mình lúc nào cũng có một quê hương bên trong sâu lặng. Quê hương ấy đã trở thành một nơi nương tựa vững vàng trong cuộc đời sau những lần “gối mỏi chân chùng”.
Câu hát “Chở lời kinh đến núi non” trong làn gió thu ân cần nghe quá dễ thương. Hai chữ “ân cần” toát ra một cái gì thật gần gũi, thân thiết của một tình thương chân thật.
Hình ảnh núi xa xa sau này cũng trở lại nhiều lần: “Cuồng phong cánh mỏi, về bên núi đợi” (Chiếc là thu phai) hay “Núi đứng quanh năm, đất muôn đời nằm, chân ta rộn ràng” (Giọt lệ thiên thu). Ước mơ làm cánh vạc bay về núi luôn luôn thao thức trên những bước chân giang hồ phiêu lãng.
Đoạn cuối cũng “Một thời yêu dấu đã qua, gót hồng em muốn quay về” thì bình thường. Nhưng câu “Dù trần gian có xót xa, cũng đành về với quê nhà”, nghe kỹ sẽ thấy hơi kỳ kỳ.
Nếu “dù trần gian có gấm hoa,…” hay gì gì đó tươi đẹp, thì hợp với “cùng đành (phải) về với quê nhà”. Nhưng tại sao ở đây lại là “xót xa”? Xót xa, đau khổ, phù phiếm, giả tạm thì phải chia tay, cần gì phải “đành” miễn cưỡng.
Phải chăng “Trần gian có xót xa” là “quê hương” có “những đời bão tố, nhọc nhằn trong nắng mưa” ta đã yêu và đã từng sẻ chia tình yêu của ta nơi ấy (Cánh chim cô đơn)?
Những tiếng nói yêu thương dành cho “trần gian” như vậy là đủ rồi, dừng được rồi. Ta phải “rời gót hồng” để “về với quê nhà” thôi.

13.
Từ đó trong vườn khuya
Ôi áo xưa em là
Một chút mây phù du
Ðã thoáng qua đời ta
Từ đó trong hồn ta
Ôi tiếng chuông não nề
Ngựa hý vang rừng xa
Vọng suốt đất trời kia
Từ đó ta ngồi mê
Ðể thấy trên đường xa
Một chuyến xe tựa như
Vừa đến nơi chia lìa
Từ đó ta nằm đau
Ôi núi cũng như đèo
Một chút vô thường theo
Từng phút cao giờ sâu
Từ đó hoa là em
Một sớm kia rất hồng
Nở hết trong hoàng hôn
Ðợi gió vô thường lên
Từ đó em là sương
Rụng mát trong bình minh
Từ đó ta là đêm
Nở đoá hoa vô thường.
Sáu khổ thơ cuối cùng của Đóa Hoa Vô Thường âm hưởng thật bi tráng. Một cánh chim đại bàng vừa rời tổ ấm vút lên bay lượn giữa trời cao, mang theo bên cánh nỗi buồn ly hương nặng trĩu.
Quê hương của Trịnh không giống như quê hương của những người khác, nhưng tâm trạng ly hương thì ai cũng trùng trùng nỗi nhớ như nhau. Chúng ta cùng nghe lại Thuyền Viễn Xứ của Phạm Duy và Hòn Vọng Phu của Lê Thương để đồng cảm thêm tâm sự bịn rịn trên bước chân tang bồng, hay “tình đi người ở lại” như Trịnh đã nói “một chuyến xe tựa như, vừa đến nơi chia lìa”.
Mịt mờ sương khói lên hương
Lũ thùy dương rủ bóng ven sông
Chiều nay trên bến muôn phương
Có thuyền viễn xứ, nhổ neo lên đường
 (Phạm Duy - Thuyền Viễn Xứ)
Đuờng chiều mịt mù cát bay tỏa buớc ngựa phi…
Dấn buớc tang bồng giữa nơi núi rừng
Bên nợ tình thâm, bên nợ giang san
Bên đồi ai oán, bên rừng đa đoan tiễn đưa bóng chàng
( Lê Thương - Hòn Vọng Phu)
Để rồi “từ đó”… “ta nằm đau”, “ta nằm nghe”, “ta là đêm” v.v… Lời kinh xưa nổi lên lồng lộng trong vườn mỗi đêm khuya, tiếng chuông gọi về tịch lặng của núi non không ngừng ngân vang, hòa theo vó ngựa phiêu linh giữa đất trời nhân gian vọng suốt. Nhiều khi thấy mình sẽ mãi mãi vĩnh biệt quê nhà dấu yêu, không bao giờ trở lại, tựa Kinh Kha cảm thán thốt lên bên bờ sông Dịch trước lúc qua Tần.
Phong tiêu tiêu hề, Dịch thuỷ hàn
Tráng sĩ nhất khứ hề, bất phục phản
(Gió đìu hiu sông Dịch lạnh lùng ghê
Tráng sĩ một đi không trở về)
Phần này xem như vài lời dẫn nhập cho hai đoạn cuối mười một và mười hai. Khúc bi tráng, trầm hùng, và cũng là khúc nhạc hay nhất của Đóa Hoa Vô Thường mà chúng ta đang cùng nhau chia sẻ.




14.
Từ đó trong vườn khuya
Ôi áo xưa em là
Một chút mây phù du
Ðã thoáng qua đời ta
Từ khi biết “hát kinh”, ta biết cách nhìn đời, có “tuệ nhãn” hiểu thực chất của những gì đến và đi qua trong đời sống này chỉ là tạm bợ, như khói, như mây. Vạn pháp, không chỉ riêng tình yêu, đều phải như vậy. Dòng sông chảy trôi bất tận, “không ai có thể tắm hai lần trên một dòng sông” như ai đó đã nói.
Trên bài hát, Trịnh viết “Tình do tâm ta mà sinh”. “Vườn” là “tâm”, “áo xưa” là “tình”. Tình ví như mây, mỗi chút tình là một chút mây. Mây không bền vững nên phù du, tồn tại một thoáng thôi rồi biến. Biết vậy, nhưng chiếc áo xưa này có hấp lực rất mạnh, trời chiều mênh mông như thế mà đôi lúc còn bị xô dạt một bên.
Ôi áo xưa lồng lộng
Đã xô dạt trời chiều
Cứ nghe Tình Nhớ là ta có thể cảm nhận được rất rõ sức mạnh này. Dẫu chỉ là “Một chút mây phu du” thoáng qua nhưng muốn quên không dễ. Biết chỉ một bóng hình đi qua giống như “sóng xa” sẽ đưa về quên lãng, nhưng vẫn còn đó, không chỉ “rộn ràng” mà còn “quá bao la”.
“Vườn” cũng là một hình ảnh hay khi nói về không gian của tâm thức. Trong không gian này, suy nghĩ, tình cảm như hoa lá cỏ cây, lúc xanh lúc vàng, khi héo khi tươi, theo mưa theo nắng. Cùng nhớ lại vài câu có “vườn” trong tác phẩm Vườn Xưa.
Trời chợt nắng vườn đầy lá non
Vườn mưa xuống hành lang tối tăm
Chào chiếc lá nằm giữa vườn hoang
“Vườn khuya” trong đoạn mười một này là tâm trạng những đêm khuya thanh vắng nghĩ về quá khứ, ngập đầy những chiếc áo màu sắc khác nhau. Tình yêu vương vấn với bóng hồng luôn luôn là “áo xưa” đẹp nhất và buồn nhất. Có lần ta nghe Trịnh nói “Kỷ niệm nào cũng đẹp nhưng vẫn cứ phải lãng quên”, cũng như từng hát “Tình ngỡ đã quên đi, như lòng cố lạnh lùng”. Lý trí thì nói vậy nhưng tình cảm có khi chẳng chịu chiều theo!






15.
Từ đó trong hồn ta
Ôi tiếng chuông não nề
Ngựa hý vang rừng xa
Vọng suốt đất trời kia
Trong đoạn này, tính kịch cao nổi lên rõ ràng nhờ âm thanh của “chuông não nề” và “ngựa hý vang”. Một tiếng nhu trầm, một tiếng cương mãnh. Một kịch tính bí mật giữa đạo và đời đang xảy ra “trong hồn ta”, giống như sự đối kháng của hai luồng nội công thâm hậu. Một bên biến ảo trùm khắp như “Vô tướng thần công”, một bên uy lực như “Giáng long thập bát chưởng”. Đôi khi hỗ tương cho nhau, đôi khi kinh mạch đảo lộn.
Tiếng chuông ở đây cũng là tiếng hát đã nói đến trong bài mười hai. Xin được trích lại vài dòng.
Cuộc đời đó nửa đêm tiếng ca lên như than phiền…
Và tiếng hát về ru mình trong giấc ngủ vùi…
Lời ca đau trên cao…
Tiếng chuông, tiếng ca này là tiếng kinh một thời đã hát và cũng đã được gởi về núi non, mong hẹn ngày gặp lại phút cuối đời, để “nở hết trong hoàng hôn” như sẽ gặp ở đoạn mười hai. Cũng nhờ tiếng chuông này mà ngựa hồng tăng thêm lòng yêu đời, yêu người trong những ngày nhân gian gió bụi. Và cũng chính nó đôi khi rung lên làm cho ta cảm thấy mình “ngốc dại”, lạc lõng, bơ vơ “tựa bé không nhà” những khi mỏi mệt giữa mưa nắng phù vân.
“Ngựa hý vang rừng xa”? Hình ảnh ngựa, không phải ngựa chiến hay ngựa hoang, mà là ngựa nghệ sĩ, ngựa tâm linh độc đáo chỉ của riêng mình đã được nhạc sĩ Trịnh Công Sơn yêu thích và sử dụng rất nhiều trong âm nhạc lẫn hội họa.
Đôi khi được đặt cạnh “mục đồng” để rõ ý đạo đời hai hướng như trong Chỉ Có Ta Trong Một Đời.
Đời vẽ tôi tên mục đồng
Đời vẽ tôi tên ngựa hồng
Từ đó tôi lên đường phiêu linh
Đôi khi chán nản vì gối mỏi chân chùng như trong Dấu Chân Địa Đàng: “Ngựa buông vó, người đi chùng chân đã bao lần” hay “Ngựa hồng đã mỏi vó, chết trên đồi quê hương” trong Xin Mặt Trời Ngủ Yên.
Tiếng “Ngựa hý vang rừng xa, vọng suốt đất trời kia” ngày một xa dần quê cũ, như trong Phúc Âm Buồn: “Ngựa xa rồi, ngựa xa rồi trên ngày tháng vơi”.







16.
Từ đó ta ngồi mê
Ðể thấy trên đường xa
Một chuyến xe tựa như
Vừa đến nơi chia lìa
Mê là gì nhỉ? Là vô minh, không thấy ánh sáng? Là không thấy rõ đâu là bến bờ thực sự cho chuyến xe cuộc đời? Là không tỉnh thức để định hướng đi cho trăm năm hữu hạn? Có phải đường ta chọn là đường lạc về phía vực thẳm, cuối đường ta sẽ cất lời tuyệt vọng trước khi rơi xuống vực sâu?
Thật sự khi hát lên những dòng này, chúng ta sẽ cảm nhận được một Trịnh “rất sáng, không mê” ở đây. Vì kẻ “mê” không bao giờ biết mình đang “muội”, như một câu kinh Phật: “Kẻ mê biết mình mê, mới là người có trí, kẻ mê tưởng mình trí, mới thực sự là mê”.
Thế nào là mê? Bài Một Cõi Đi Về có thể giải đáp câu hỏi này. Con đường mê là con “đường chạy vòng quanh” dẫn đến khổ, “tiều tụy”, “mỏi mệt”. Con đường sáng như “hai vầng nhật nguyệt” dẫn đến vui, an lạc, tự tại ung dung. Rồi thế nào là khổ, thế nào là vui? Cứ hỏi, cứ nghe Trịnh, cứ nghe chính tiếng nói nội tâm mình, chắc không khó để tìm một lời giải đáp.
Ngoài hình ảnh của ngựa hý vọng suốt đất trời kia và tiếng chuông vang mãi đất trời này,  chúng ta cũng gặp lại một hình ảnh quen thuộc khác là con đường và chuyến xe. Đường xa? Đường nào đây, đường đi hay đường về?
Một đằng là chuyến xe trên đường xa về phía bụi hồng nhập thế. Một đằng là chuyến xe trở về quê cũ trong lành thoát khói nhân gian. Thế mà….
Em đi bỏ lại con đường
Bờ xa cỏ dại, vô thường nhớ em
Em đi bỏ lại dậm trường
Ngàn dâu cố quận, muôn trùng nhớ thêm
(Em đi bỏ lại con đường)
Đường dẫn đến bờ xa chỉ có cỏ dại vô thường, con đường ấy rất nhớ ta. Đường về “ngàn dâu cố quận” ta cũng muôn trùng nhớ. Bỏ mặc đường nào ? Có những lúc ta cảm nhận được hai xung lực này giày xéo Trịnh. Bỏ. Bỏ. Bỏ hết! Mặc kệ, đường nào cũng kệ, như từng “Thôi kệ” thật khoan dung, độ lượng với nơi ông từng thấy mình chỉ là “cỏ xót xa đưa”.
Bỏ mặc hư vô, bỏ ngậm ngùi
Bỏ mặc chân không, bỏ mặc người
Rồi trên chuyến xe đời nơi xa xăm ấy, có tiếng nói nào đây mà mỗi đêm thấy mình như “thác đổ”?
Chiều nay em ra phố về  Thấy đời mình là những chuyến xe
Còn đây âm vang não nề  Ngày đi đêm tới trăm tiếng mơ hồ.
(Nghe những tàn phai)
“Âm vang não nề”? Có phải là âm vang của tiếng chuông não nề trong Đóa Hoa Vô Thường đã ngân lên từ độ ấy?
17.
Từ đó ta nằm đau
Ôi núi cũng như đèo
Một chút vô thường theo
Từng phút cao giờ sâu
Vừa mới “ta ngồi mê”, giờ là “ta nằm đau”. Tư thế khác, biểu hiện khác, nhưng vẫn là “tâm bệnh”. Trịnh Công Sơn là tên của “bệnh nhân”, “bác sĩ” đang chẩn đoán tên là Sơn Trịnh. Cả hai đã ra đi. Chúng ta đang lật lại “hồ sơ bệnh án” để hiểu thêm chứng “bệnh lạ” của ”dị nhân”này, xưa từng đến thăm trái đất đáng yêu một thời không lâu.
“Ôi núi cũng như đèo”? “Núi” là hình ảnh của lý tưởng, khát vọng, của hoài bão, ước mơ. “Đèo” là con đường dẫn đến núi.
Đường lên núi vẫn lộng gió trắng mây nhưng có một người đã già rồi, tóc chiều rồi, vẫn còn quên ngủ. Giờ nằm đau đây chỉ biết than ôi.
Núi là nơi cho ta hát được lời kinh, nhìn được ánh sáng, và  lời kinh cũng đã được chở về gởi đó. Lúc nào lòng ta cũng hướng về đỉnh núi “địa đàng” cuối trời mờ xa ấy.
“Người hãy nhớ mang theo hành trang
Qua khoang trời vắng chân mây địa đàng”
(Xin mặt trời ngủ yên)
Đóa Hoa Vô Thường như một dự phóng cho định mệnh, một bản đồ cho sự chọn lựa về số phận. Cuộc đời Trịnh đã nói lên dự phóng, chọn lựa ấy. Một trái tim tươi đỏ, ca hát yêu đời hòa với giọt lệ khô buồn bên những mũi tên cắm lên rướm máu. Số phận bi hùng của một cánh chim trời sống xa đàn, cô độc.
Như là chim xa đàn
Giấu nỗi buồn trong cánh
Hẹn hò với giấc mơ
(Cánh chim cô đơn)
Núi ơi! Hãy chờ ta nhé ! khi nào ”cuồng phong cánh mỏi” ta sẽ “về bên núi đợi” (Chiếc lá thu phai)
Hẹn thì hẹn thế, nhưng đôi khi Ông thấy mình như người đã phụ rẫy một tình yêu lớn bao la, may mắn lắm mới gặp được trong đời. “Nhiều đêm muốn quay về” nhưng nhiều đêm cũng thấy đường về núi kia chắc “là một đường không bến bờ” (Lời thiên thu gọi).
Khi cảm nhận được tâm sự trùng trùng này ta sẽ hiểu thêm những lời Trịnh nói như “một cõi đời tôi đã mất”. Ông vừa thấy mình là “kẻ chiến thắng”, vừa là “kẻ chiến bại”. Vui khi sống được với lý tưởng mình đã chọn: “Và như thế tôi sống vui từng ngày, và như thế tôi đến trong cuộc đời, đã yêu cuộc đời này bằng trái tim của tôi” (chiến thắng). Nhưng cũng buồn vì không hoàn toàn tìm lại được “cõi tịch lặng vô ngôn“ như vẫn từng mơ ước. Hay nói theo Nguyễn Du trong Kiều là chưa thấy được “sương tan đầu ngỏ, vén mây cuối trời”(chiến bại).
Có lẽ “Từng phút cao giờ sâu” là câu lạ nhất ở đoạn này. Có hai cách hiểu nhưng cũng gần giống nhau.
Ở đây, hai trục thời gian và không gian được mở ra bằng những từ ngữ dung dị. Cách thứ nhất, tình yêu núi yêu đèo ấy lúc này lúc kia, trước kia thăng cao, bây giờ giáng sâu, xuống thấp. Cách thứ hai là tình yêu chân lý trước đây đã từng lên cao nhưng chỉ lên ngắn ngủi như phút, bây giờ sâu xuống thì xuống nhiều gấp sáu mươi lần.
Và tình yêu tưởng nguyên vẹn, bền vững ấy cũng phải bị chi phối bởi luật vô thường, nhưng dễ thương  là chỉ “một chút” thôi. Yên tâm đi, có thay đổi, nhưng không sao. Trước sau gì cũng về mà. Hãy đợi đấy!









18.
Từ đó hoa là em
Một sớm kia rất hồng
Nở hết trong hoàng hôn
Ðợi gió vô thường lên
“Từ đó hoa là em”? Hoa trở thành Em, hóa thân của Đạo. Hoa đó vẫn hiện hữu trong tâm của mỗi con người, thường được gọi là Phật tính (Buddha nature) hay bản chất Thượng đế (God nature) như ta vẫn thường nghe trong kinh Phật hay kinh Thánh: “Phật tại Tâm”, “Chúa ở cùng anh chị em”. Hoa cũng là hình ảnh của những bậc chân nhân, thánh hiền với trí tuệ và đức hạnh tỏa  hương thơm ngược gió. Cùng đọc thêm một câu kinh Phật:
"Hương các loại hoa thơm
Không ngược bay chiều gió
Nhưng hương người đức hạnh
Ngược gió khắp tung bay
Chỉ có bậc chân nhân
Tỏa khắp mọi phương trời”
(Pháp cú 54)
“Một sớm kia rất hồng”? Với màu hồng, rất dễ nhận ra đây là màu của đóa hoa sen, đã chớm nụ từ “một sớm kia”. Hoa “sen hồng một độ” ngày nào từng làm ta ngất ngây, tươi tắn: “Em hồng một thuở xuân xanh”. Ta đã “Chở lời kinh đến núi non”, gởi gắm tâm tình của ta với hoa nơi xa xăm ấy, hy vọng ngày không xa sẽ “nở hết trong hoàng hôn”. Ta sẽ tận hưởng hương vị ngọt ngào tinh khôi này sau khi “trả nợ” cho thế nhân trái tim ta đã vay từ ngàn năm trước. Ta sẽ ung dung, thanh thản với mây trời để “đợi gió vô thường lên”, kết thúc những ngày tháng rong chơi nơi hành tinh này.
Cách nói “từ đó hoa là em” (hay em là hoa) sau này chúng ta cũng thấy lại trong Nguyệt Ca: “Từ khi trăng là nguyệt”. Trong Nguyệt Ca, hoa đã hóa thành trăng. Ánh sáng trăng rằm và hương thơm hoa sen cũng đều là biểu tượng của chân lý, của đạo.
Từ khi trăng là nguyệt tôi như từng cánh diều vui
Từ khi em là nguyệt trong tôi có những mặt trời
Hay
Từ khi trăng là nguyệt vườn xưa lá xanh tươi
Đàn chim non lần hạt cho câu kinh bước tới
Từ khi trăng là nguyệt tôi nghe đời vỗ về tôi
Từ khi em là nguyệt câu kinh đã bước vào đời.





19.
Từ đó em là sương
Rụng mát trong bình minh
Từ đó ta là đêm
Nở đoá hoa vô thường
Trong đoạn cuối cùng này, hai hình ảnh đẹp, sương rơi buổi sáng và hoa nở về đêm. “Sương hồng” ở đoạn ba hay “một đóa hoa quỳnh” ngày “trăng vàng khai hội” trong đoạn năm cùng nhau xuất hiện trở lại. Hai bức tranh, một sáng một tối, nằm song song, bức này làm tăng thêm vẻ đẹp của bức kia, tương phản nhưng nằm bên cạnh nhau đã làm cho Đóa Hoa Vô Thường trước khi kết thúc, vang lên những lời thơ dịu dàng, sâu sắc, đầy ấn tượng.
Mưa rơi, hoa rơi là những từ ngợi ca về sự kỳ diệu của những lời kinh. Mỗi câu kinh như giọt mưa, như đóa hoa rơi xuống đem đến mát mẻ cho muôn loài. Trong đạo Phật, hình ảnh này còn gọi là ‘mưa pháp” hay “hoa pháp”. Ở đây, thay vì mưa và hoa, ta gặp thêm hình ảnh của sương, “sương pháp”.
Khi nói lên tâm trạng vui mừng tắm mình trong những giọt sương “rụng mát trong bình minh” này, Trịnh đã vẽ bằng “líu lo”, “lẫy lừng”, hồn nhiên như tiếng chim non, như bước trẻ trong đoạn sáu. Hay nhiều hơn, rõ hơn trong Nguyệt Ca:
Đèn thắp sáng trong tôi…
Tôi như từng cánh diều vui…
Trong tôi có những mặt trời…
Xua tan những nghi ngờ…
Hân hoan giây xuống thế…
Giọt sương ấy, đóa hoa ấy vẫn mãi rực rỡ sắc màu giữa dòng đời vô thường, biến ảo, mộng mộng mơ mơ nhưng cũng tràn đầy tiếng thơ, tiếng nhạc.
Ý nghĩa của “sương”, “hoa”, “trăng” về con đường, sự sống, và sự thật đã nở trên những bước ngựa hồng, vừa nồng nàn, vừa ngậm ngùi với hương vị vui buồn giữa đêm hồng một thời bỏ ngỏ.

oOo


GIÓ ĐỜI HƯƠNG ĐẠO_MỘT CÕI ĐI VỀ

MỘT CÕI ĐI VỀ 
Trịnh Công Sơn

1.

Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt.
Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về .

Một Cõi Đi Về là một ca khúc cao sâu chiều kích tâm linh của Trịnh Công Sơn, cũng là tác phẩm Ông tâm đắc nhất trong sự nghiệp âm nhạc của mình.  Đây là một bài khó “đụng” vào, rất dễ phỏng tay, rất dễ bị hố! “Trèo cao té đau”, biết vậy nhưng kệ, trèo đại thử xem, đau thì đứng dậy, mai mốt rút kinh nghiệm, trèo tiếp.

Một Cõi Đi Về được hiểu nhiều cách khác nhau, phổ biến nhất là Cõi Chết, theo nghĩa của “sinh ký tử quy”, sống gửi thác về”. Một ý nghĩa khác là “kiếp nhân sinh”, cũng giống như “trăm năm trong cõi người ta” của Nguyễn Du vậy. Trong bài này, xin được có thêm một góc nhìn mới về “cõi” này: cốt lõi thực sự của tâm (phục bổn hoàn nguyên) hay bộ mặt thanh tịnh của tâm (bản lai diện mục), và nói theo cách riêng của Trịnh là “vẻ nguyên vẹn” của cội nguồn tâm hay “trở về với Phật tính trong cõi riêng của mình”.

Đoạn nhạc đầu tiên này có thể gọi là một bài thơ Thiền về bờ giác, bến mê, rất Trịnh. Ý tứ không lạ nhưng trở nên sống động qua cách biểu đạt mới mẻ của riêng Ông. Kinh Phật và thơ Thiền Việt Nam cũng có những bài kệ, bài thơ chuyển tải ý “đi đâu loanh quanh” hay “lang thang” này rất hay. Dù “loanh quanh” và “lang thang” hơi khác nhau, nhưng ý nghĩa chung là muốn nói về bước chân không định hướng.

        Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách, 
        Nhựt viễn gia hương vạn lý trình 
(Trần Nhân Tông)
        Lang thang làm khách phong trần mãi, 
        Ngày cách quê hương muôn dặm trình 
(Thích Thanh Từ dịch).

Hay Phật trước khi Giác Ngộ cũng là một người lang thang, nhưng là lang thang đi tìm nhà, không giống như hầu hết chúng ta, tuy lang thang nhưng không tha thiết với chuyện trở về “quê quán tôi xưa”.
Lang thang bao kiếp sống
Ta tìm nhưng chẳng gặp,
Người xây dựng nhà này,
Khổ thay, phải tái sanh.
(Kinh Pháp Cú, câu 153)

Trịnh là một người hiểu sâu triết lý Phật Giáo nên những vấn đề như Sinh Tử Luân Hồi đều được Ông nhắc đến.

Không có đâu em này
Không có cái chết đầu tiên
Và có đâu bao giờ 
Đâu có cái chết sau cùng
 (Ngẫu Nhiên)

Vòng sinh tử “loanh quanh”, vô thủy vô chung dẫn dắt chúng sanh lăn trôi bất tận khi chưa thực sự về đến “một cõi đi về”.

Kìa còn biết bao người
Dìu dặt tới quanh đây 
(Ngẫu Nhiên)

Ánh sáng của “đôi vầng nhật nguyệt” luôn “rọi suốt trăm năm” trong mỗi trái tim người nhưng không phải ai cũng nhận ra được. Trong truyện cổ Phật Giáo, có sự tích người ăn xin vẫn mãi xin ăn, không biết được trong nhà mình có cả một kho báu. Dựa trên giai điệu của bài Một Cõi Đi Về, xin đươc hát tếu như thế này  “Bao nhiêu năm rồi còn mãi đi xin, trong khi nơi kho muôn ngàn vàng ngọc”.

Về góc độ tự sự, bốn câu đầu tiên này như một suy niệm sâu sắc về thân phận con người và góc nhìn của một thiền nhân về con đường thoát ra khỏi thân phận đó. Như một lời trách nhắc nhẹ nhàng, Trịnh tự trách mình thôi, nhắc mình thôi nhưng ai nghe cũng thấm! Những lời này cũng từng xuất hiện nhiều trong khung trời mênh mông của Trịnh, khi thấp thoáng, khi rõ ràng như ”Trăng ơi trăng rất tệ, mày đi nhớ chóng về” (Biết đâu nguồn cội) hay “Thôi về đi đường trần đâu có gì” (Phôi pha). Không phải là thân phận phù du cát bụi của kiếp người như ở đoạn sau, tàn xuân tàn hạ, mà là nỗi niềm bế tắc “loanh quanh”, “chạy vòng quanh”, “kiến bò quanh đĩa”, lòng vòng không có đường ra, đầy bi kịch phủ kín, bít lấp như “mây che trên đầu” này của hữu hạn trăm năm.

Ở đây, có sự tương phản giữa hai màu sắc nghịch nhau, màu trầm tối “mỏi mệt” than van trên những bước chân không hướng và màu sáng tỏa của “nhật nguyệt” mở hướng, chiếu “nắng trên vai”. Ánh nắng ấy hiện hữu “rọi suốt”, lúc nào cũng có mặt mà sao ta lại “hững hờ” với “chôn quê nhà” đến vậy. “Nhật nguyệt í a trên cao” ấy là gì? “Cõi đi về” ấy là gì? Vẫn còn nhiều điều để nói.

2.

Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt    
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về.

“Đôi vầng nhật nguyệt” hay “một cõi đi về” đều là những hình ảnh tượng trưng cho chân lý. Trong rất nhiều ca khúc của Trịnh, hình ảnh này cũng xuất hiện với nhiều tên gọi khác như “nguồn cội” (Biết đâu nguồn cội), “hư vô”, “chân như” (Giọt lệ thiên thu), “mái nhà” (Lời thiên thu gọi), “quê quán xưa” (Bên đời hiu quạnh), “địa đàng” (Dấu chân địa đàng), “vô vi” (Nguyệt ca), “thiên thu” hay “ngàn năm” (Ru mãi ngàn năm) .v..v…

Làm sao để thấy được “đôi vầng nhật nguyệt” này? Trong đạo học phương Đông có câu “ngón tay chỉ trăng”, muốn thấy được chân lý (mặt trăng) phải nương theo hướng chỉ của ngôn từ (ngón tay), khi thấy chân lý rồi thì đừng nhìn ngón tay nữa. Chân lý vốn không lời, là chân kinh không chữ như  Nguyễn Du đã từng nói “Chung tri vô tự thị chân kinh” (cuối cùng mới biết rằng chân kinh là không chữ). Và “chân kinh vô tự” cũng chính là “chân tâm vô niệm”. Như vậy, muốn thấy “nhật nguyệt” hay “chân tâm” cần phải nương vào “ngón tay”, “chiếc bè” hay “nhịp cầu” của kinh điển. Đây là lý do tai sao những người tha thiết với chân lý (truth-seeker) thường tìm đến với tôn giáo.

Với Trịnh, chúng ta cũng thấy nơi Ông một tấm lòng nhiệt tâm của một người khao khát muốn trở về với “mái nhà Phật tính” của chính mình: “Có những ngày tháng tôi đã bỏ mình vào một cõi tịch lặng vô ngôn để thử nhìn lại rõ mình hơn” hay “Hãy biến mình vào hư vô, vào hư vô của chính mình, vào hư vô của sự vật, vì trong hư không đó mình sẽ tìm thấy được mình và sự vật ở vẻ nguyên vẹn của nó." “Hư vô” là điều Phật đã nói từ ngàn xưa: “Hãy nhìn đời trống không, thần chết không thấy được”.

 Khi về lại được với “cõi tịch lặng vô ngôn” hay “hư vô, hư không” đó chính là  “trở về với Phật tính trong cõi riêng mình. Ðó là quê hương, là chiếc ngai Phật. Tôi ngồi, Phật sẽ tràn ngập tôi và tôi sẽ tràn ngập Phật”.

Hãy cùng nghe thêm một câu nói rất hay của Ông.

"Có kẻ đứng trước bao la mà không thấy được bao la. Có kẻ ở buổi bình minh, nghe tiếng chim hót đã chạm mặt với cõi vô lượng. Biết được vô lượng là cùng lúc đến với vô biên. Cái vô biên nằm đâu đó trên cánh vạc chở hoàng hôn về núi mỗi chiều."

Và chắc không khó để nhận ra bóng dáng của chân lý qua những từ như vô lượng, vô biên. Vô lượng là chiều bao la của không gian và vô biên là chiều mênh mông của tĩnh lặng.

Chiều kích vô lượng, vô biên ấy của chân lý, ví như ngọc báu, cũng có sẵn trong mỗi người chúng ta: “Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch” (Trong nhà có ngọc không cần tìm kiếm nơi nào khác cả, thơ Trần Nhân Tông) hay “You wander from room to room, hunting for the diamond necklace, that is already around your neck” (câu này của Rumi, nhà thơ đạo sĩ Hồi Giáo, thế kỷ 13, tạm dịch : Chuỗi ngọc trên cổ rồi Tại sao lại không thấy Tìm phòng này phòng nọ Lòng vòng mỏi mệt thay).

Chân lý là gì? Chân lý ở đâu? Làm sao để nhận ra chân lý? Xin được nói thêm trong phần tiếp theo.

3.

Nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xa.
Mưa bay trong ta bay từng hạt nhỏ
Trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ
Chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà.

Về mưa, Trịnh cũng viết nhiều bài hay như Mưa Hồng với “Này em đã khóc chiều mưa đỉnh cao, còn gì nữa đâu sương mù đã lâu”, hay Diễm Xưa với “Mưa vẫn mưa bay cho đời biển động, làm sao em nhớ những vết chim di”, rồi Chìm Dưới Cơn Mưa với “Chìm dưới cơn mưa và chìm dưới đêm khuya, trời đất bao la còn chìm đắm trong ta”. Phải chăng mưa là một dạng “thời tiết” của cuộc đời, khi dịu mát, lúc lạnh băng?

Trong đoạn hai này của  Một Cõi Đi Về, cũng “mưa” nhưng là “mưa nơi này” và “mưa nơi xa”. Nghe mưa ở đây, hiện tại, lại nhớ về mưa nơi nào thuộc tương lai hay quá khứ? “Từng hạt nhỏ” là những suy tưởng trong tâm thức “mưa bay”? Chính những tiếng mưa vang vang mãi “trong ta” ngăn trở con đường “hội ngộ” với “vô biên” của “chốn quê nhà”?

“Trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ”? “Trăm năm” là một kiếp người. Trăm năm này “tử” đến trăm năm khác “sinh”, trở đi trở lại trong vòng luân hồi “vô biên”, bất tận? Ý này cũng hợp lý nhưng chỉ nói đến thực trạng “không biết nhà để về” của một người lang thang.

Còn nếu sắp xếp lại để thành “Trăm năm chưa từng hội ngộ (với) vô biên” thì chiều kích “vô biên” của Đạo được “mở” rõ ràng hơn, như đã từng giải bình trong những phần trước, và người viết nghĩ đây chính là ý mà Trịnh muốn gởi gắm.

Còn nếu hiểu “Trăm năm vô biên” là sự vô biên của tuổi thọ đời người vốn vỏn vẹn “ba vạn sáu ngàn ngày là mấy” thì quả là vô lý. Quãng thời gian ngắn ngủi ấy không thể nói là vô biên, vô hạn được, sớm muộn gì thì cũng như “vết mực”, phải chấp nhận số phận “xóa bỏ không hay” thôi!

Trong thơ nhạc, do âm điệu, do giới hạn của câu chữ nên làm thế nào chỉ trong bao nhiêu nốt ấy, bao nhiêu chữ ấy, nhạc sỹ, thi nhân có thể chuyển được ý sâu là một điều không đơn giản. Đó là “nỗi khổ từng chữ, từng nốt” và cũng là yếu tố để quyết định tài năng!

Bài đăng trước có đề cập đến chiều kích vô biên, vô lượng của chân lý, giờ đây xin được bàn thêm.
Chân lý là gì? Là sự thật (truth). Sự thật thì có sự thật tuyệt đối (absolute truth) và sự thật tương đối (relative truth). Sự thật tuyệt đối là sự thật không bị chi phối bởi thời gian, vĩnh hằng, không thay đổi, không bị hoại diệt vì không có tuổi thọ. Sự thật tương đối là sự thật có tuổi thọ, chỉ tồn tại trong một thời gian nào đó (trăm năm, ngàn năm, triệu năm,…) rồi cũng phải chịu sự chi phối của định luật vô thường, sinh diệt, đổi thay, biến hoại.

Ở đây, tuy không dùng tính từ “đúng” khi nói đến chân lý, nhưng ý nghĩa “không bao giờ sai” vì “không bao giờ mất” cũng đã được hàm chứa. (“Đúng sai” là câu chuyện dài của loài người chẳng bao giờ kết thúc; sự thăng hoa, sự tuột dốc, nước mắt, máu xương, đã đổ quá nhiều như sông, như núi cũng từ hai chữ “đúng sai” này.)

Nếu thật ngắn gọn thì có thể nói thế này : Chân lý tuyệt đối là “cái-không-có-gì”, còn “chân lý tương đối” là “cái-có-gì”. “Cái không có gì” đó chính là “không gian” (space) và “cái có gì” là “vật thể” (objects). Vật thể là những gì có hình, có tướng, nổi lên, hiện ra, có thể biết được qua các giác quan, nhìn được, nghe được, ngửi được, nếm được, sờ mó được, suy nghĩ được. Còn không gian thì ẩn, chìm, vô hình, vô tướng, vượt ra ngoài sự hạn hẹp của ngôn từ nên chỉ có một cách duy nhất là “feel” thôi, cảm nhận trực tiếp bằng “trực giác” thôi.

Chân lý còn có một khái niệm khác đồng nghĩa là “thực tại” (reality). Đời sống của chúng ta nếu chỉ “nghiêng” về “thực tại tương đối” (relative reality) thì chắc chắn sẽ “ngả” vì thiếu sự quân bình, thiếu sự nâng đỡ của “thực tại tuyệt đối” (absolute reality). Đây cũng là một thảm trạng chung cho nhân loại.

Thế thì chân lý ở đâu? Câu trả lời là “Chân lý ở khắp mọi nơi” (God ,Truth, is everywhere), cũng giống như không gian vậy. Không gian bên ngoài là vũ trụ vô biên, dung chứa những tinh tú. Không gian bên trong là vũ trụ của tâm, dung chứa suy nghĩ, cảm xúc. Đại khái thế, không thể nói dài một sớm một chiều được, phải từ từ thôi.

Dầu chúng ta không thể nói được về không gian “không có gì”, nhưng có thể mượn những hình ảnh của “có gì” để nói về nó. Trên mỗi trang giấy, có phải nằm phía dưới những con chữ là nền trắng? Trên hư không, có phải ẩn sau những đám mây là màu xanh của bầu trời? Phía dưới dòng xe cộ, có phải là sự bất động của con đường? Có phải bất cứ ở đâu và khi nào, bao trùm chúng ta cũng là không gian và sự tĩnh lặng (cặp này luôn đi chung với nhau, không tách rời)?

 Phải chăng khi biết chú ý thêm chiều “tĩnh” của “cái-không-có-gì” giữa những chiều “động” của “cái-có-gì”, cách nhìn đời, cách cảm nhận cuộc sống sẽ được trọn vẹn hơn, nhất là nghe lại nhạc Trịnh? “Đôi chân ta đi sông còn ở lại”, “Núi đứng quanh năm, đất muôn đời nằm, riêng ta rộn ràng”, “đóa hoa vàng mỏng manh cuối trời”, “ôi áo xưa lồng lộng đã xô dạt trời chiều’,…rất nhiều những bức tranh có sự qua lại, linh động, trọn vẹn “âm dương”,”động tĩnh” như thế này.

4.

Trong khi ta về lại nhớ ta đi
Đi lên non cao đi về biển rộng
Đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng
Ngọn gió hoang vu thổi suốt xuân thì.
Hôm nay ta say ôm đời ngủ muộn
Để sớm mai đây lại tiếc xuân thì.

“Trong khi ta về lại nhớ ta đi” là một câu nhạc của Trịnh có độ rung chấn không nhỏ, ai cũng thấy mình trong đó, hình như tình huống nào cũng “vận dụng sáng tạo” được. Sự ngập ngừng trên mỗi bước chân, sự dùng dằng giữa “Đường trần đâu có gì” và “Tiếng nói nhu mì của quê quán tôi xưa”, sự giằng co giữa “chén rượu cay một đời tôi uống hoài” và “vầng trăng quê cũ”. Ra đi thì lúc nào cũng nghe vang vang “Trăng ơi trăng rất tệ mày đi nhớ chóng về”, lâu lâu về nhà thì nghe thì thầm “Lòng thật bình yên mà sao buồn thế”.

“Trong khi ta về lại nhớ ta đi” cũng không khác “trong khi ta đi lại nhớ ta về”. Đây là tình cảnh “Đi về lận đận Tình đôi ngập ngừng” trong  Tiến Thoái Lưỡng Nan sau này.

“Đi lên non cao đi về biển rộng”? Những ai có tu thiền đều thích câu này. Tập cho tâm an trú trong hiện tại đưa nhưng “tâm viên ý mã” lúc nào cũng kéo ta “lên non cao” của quá khứ, “về biển rộng” của tương lai. “Vọng tưởng điên đảo” luôn luôn muốn đi đó đi đây “ta bà thế giới”, “ngoạn thủy du sơn”.

Về mặt từ ngữ, “Đi lên non cao đi về biển rộng” cũng có thể cảm nhận theo hai cách. Cách thứ nhất có thể đặt “non cao” cùng hướng với “biển rộng” chỉ con đường hướng ra ngoài sơn thủy, theo cách này thì “về” cũng là “đi”. Cách thứ hai, bẻ ngoặt hướng đối lập thì “non cao” chỉ bên ngoài, còn “biển rộng” chỉ bên trong. Nếu so sánh thuần về độ lớn thì rõ ràng biển rộng lớn hơn, chiếm ba phần tư quả đất, “quê nhà” rộng như biển bao giờ cũng bao la thanh bình hơn gấp nhiều lần mây nắng non cao, và hai chữ “về” trong hai câu “trong khi ta về” và “đi về biển rộng” đều chỉ một chuyển động cùng chiều.

Giữa hai chọn lựa “đi” “làm con sông cho tháng ngày trôi” và “về” “chốn thiên đường không có tháng ngày trôi” thì phần thắng luôn luôn cho nơi có tháng ngày. Dầu đôi khi thấy “Tôi như người bỗng lênh đênh giữa đời” (Ở trọ) nhưng “Dầu thật lệ rơi lòng không buồn mấy” (Bên đời hiu quạnh). Đây là một nét rất đẹp của Trịnh, đẹp vì thật, đẹp vì tin vào sự chọn lựa của mình, dầu biết rõ rằng trong quyết định “rong chơi giữa đời” vẫn không hoàn hảo. Nét ngay thẳng của “đại nhân” nằm chính chỗ này.

“Đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng”? “Nhân gian chưa từng độ lượng” thì ý rõ rồi, nhưng còn “đôi tay nhân gian”? “Đôi tay” của “nhân gian” hay lấy “đôi tay” mình để ôm cả “nhân gian”? Ý thứ nhất là một cách nhìn đời, ý thứ hai có trái tim mình trong cuộc đời đó. Xin lan man theo ý thứ hai.
Trong phần trước đã bàn về cái hữu hạn, hữu lượng tương đối của “nhân gian”. Dù “đường trần không có gì” (Phôi pha) nhưng lại là chốn “trần gian có xót xa” (Đóa hoa vô thường), và chốn ấy rất “cần một trái tim” (Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui) và “cần có một tấm lòng” (Để gió cuốn đi).

Người ôm lấy muôn loài 
Nằm trong tiếng bi ai 
(Ngẫu nhiên)

Đường đời vốn thế, lấy “đôi tay” mình mà “ôm” thì giống như “ôm lòng đêm”, cuối cùng cũng “Ôi phù du từng tuổi xuân đã già đời người như gió qua” (Phôi pha) và “Đôi tay vẫn còn ôm mịt mùng” (Tình xót xa vừa) mà thôi. Làm sao có hạnh phúc thực sự giữa chốn “chưa từng độ lượng” ấy được.
Và “suốt xuân thì” chỉ thấy “ngọn gió hoang vu” nhưng vẫn “yêu quá đời này”, dẫu rằng nhiều khi “dấu lệ”.

Đoạn cuối này còn hai câu mang nỗi buồn cũng đậm, nhưng thôi, cứ để hương linh ông bây giờ “ôm thiên đường ngủ muộn”, “tiếc xuân thì” chỉ còn lúc vướng víu với nhân gian.

5.

   Mây che trên đầu và nắng trên vai     
Đôi chân ta đi sông còn ở lại
Con Tinh yêu thương vô tình chợt gọi   
Lại thấy trong ta hiện bóng con người.

Qua bốn câu nhạc này, chúng ta có thể thấy được lý do tại sao đưa đến sự giằng co giữa hai lực kéo Đi và Về trên con đường “lênh đênh giữa đời” của Trịnh. Là một con người bình thường vì trái tim cũng đập theo nhịp đời như bao người, nhưng cũng khác thường nhờ sức nâng của đôi cánh tâm linh đã đẩy ông bay lên khỏi một phần những tầm thường trong vòng tục lụy thế gian.

Có người nói rằng nếu Trịnh Công Sơn không bị níu lại bởi sợi dây ràng buộc của đời thường thì rất có thể Ông sẽ trở thành một thánh thi sĩ như Tagore của Ấn Độ hay Rumi của Ba Tư. Hai nhà thơ rất được tôn kính, những lời minh triết xưa của họ thường được nhắc đến trong cộng đồng tâm linh trên toàn thế giới, đặc biệt ở phương Tây.

Hơn ai hết, Trịnh cũng biết được giới hạn của mình, điều này có lẽ không khó nhận qua những lời ca Ông viết “Đởi tôi trót dại tự làm khô héo tôi đây” (Chiếc là thu phai). Và cũng chính biết rõ mình như thế đã làm tăng thêm giá trị của ông: một người sống giữa đời, dù có buồn có khổ, nhưng vẫn sống hết lòng bằng trái tim đạo, đầy thương yêu.

“Mây che trên đầu và nắng trên vai”? Ánh sáng “chân như” chiếu “rọi suốt trăm năm” nhưng chỉ xuống được phần vai, phần đầu vì bị mây che không tới được. Hệ lụy nhân gian làm ánh sáng không trọn vẹn, toàn phần. Trong kinh Phật, hình ảnh “trăng thoát khỏi mây” thường dùng để nói đến kinh nghiệm chứng ngộ được sự thật, thấy được “bản lai diện mục” (bộ mặt xưa nay) của chính mình. Bộ mặt này qua ca từ của Trịnh là “quê quán xưa”, “vầng nhật nguyệt”, v.v.. mà chúng ta đã từng nói đến.

“Đôi chân ta đi sông còn ở lại”? Dòng sông xuất hiện rất nhiều trong di sản ca khúc của Ông, mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Đẹp và lạ như tranh trong “con sông là thuyền mây xa là buồm”, “Những dòng sông nối đôi tay liền với biển khơi” (Bốn mùa thay lá), trầm ngâm triết lý như “Ngồi bên dòng sông nhớ đời mình, một trăm năm sau mãi ngủ yên” (Lời của dòng sông)… Nhưng trong Một Cõi Đi Về, với một chủ đề xuyên suốt chặt chẽ, thì có lẽ ý nghĩa “cội nguồn” là hợp lý nhất.

Về chiều sâu tâm thức, phải chăng “đôi chân ta đi” là “động”, vọng tưởng, vọng tâm … “sông còn ở lại” là “tĩnh”, là cội nguồn, là chân tâm, minh tâm…Có “cái biết” sáng tỏ, im lắng đang “thấy” những bước chân đi?

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng có một câu nói về ý này nhưng dùng hình ảnh “mái nhà” thay vì “sông”:

"Rứt bỏ mái nhà để ra đi cũng như phụ rẫy một tình yêu. Mái nhà ở lại hoàn toàn vô tội. Mái nhà vẫn chờ cửa để đón người trở về nhưng người ra đi thì không bao giờ kéo được mái nhà về với mình nữa. Có được một mái nhà riêng trong lúc sống là một hạnh phúc. Nhất là mái nhà ấy là hình ảnh của chính mình."
  Mái nhà cũng như sông vẫn ở lại đó, êm đềm yên lặng, chờ đợi “trăng lãng du” trở về mà sao đôi chân mãi cứ ra đi?

Lý do đây: Con tinh yêu thương! Dù Trịnh có lần giải thích lý do ông dùng chữ “yêu tinh” là vì ở Huế, người thân hay mắng yêu mấy cô gái nhỏ, xinh đẹp, nghịch ngợm là “đồ yêu tinh”. Nhưng cách giải thích này chỉ hé mở một phần, phần lớn còn lại chính là Ông muốn ám chỉ “tình yêu nam nữ” hay rộng hơn là dục vọng hay khát ái của con người. Điều này cũng đã được hát lên trong Giọt Lệ Thiên Thu: “Nắng quái yêu ma, lung linh thành trì, lung linh cửa nhà”. Yêu ma hay yêu tinh thì cũng là “yêu”. Đang “rong chơi giữa đời”, quanh mình toàn là người bình thường, yêu xuống yêu lên, nếu nói trắng ra, sao tránh khỏi phiền lòng thiên hạ! Hơn nữa, mình đâu phải thầy tu mà “hạ giá” điều mà mọi người xem trọng, ngay cả mình cũng chưa thoát được ngọt đắng của nó kia mà.

Tình yêu vẫy gọi, tình bạn, tình đời, đủ thứ tình. Bên tai vẫn loáng thoáng tiếng “chợt gọi vô tình” của “con người hiện bóng”. Lại ra đi, chán. Lại đi về, buồn.

6.

Đường chạy vòng quanh, một vòng tiều tụy  

 “Vòng quanh” “tiều tụy” cũng giống như “loanh quanh mỏi mệt”. Thử thay đổi một chút thành “chạy quanh đường vòng”, nghe cũng hay hay. “Chạy quanh”, tốc độ nhanh hơn, mạnh hơn “đi đâu loanh quanh”. “Tiều tụy” cho ta cảm giác héo, hốc hác hơn “mỏi mệt” rất nhiều, mỏi mệt chỉ đổ mồ hôi còn tiều tụy rất rõ sự hết “pin”, mỏi mòn nhựa sống.

 “Đường vòng” gợi đến sự cong cong, một đường cong khép kín, tịt lối thoát, bí lối ra. “Kiến bò quanh đĩa” hay “cái vòng danh lợi cong cong, kẻ hòng thoát khỏi người mong bước vào” là những câu rất Việt không lạ. Bi kịch của thân phận người bị bao vây bởi “cái vòng” này, phải nói là “mê hồn trận” cho thêm phần kịch tính. Danh lợi ở đây chỉ là một phần ý nghĩa của “cỏ non”, “cỏ lạ” trong bài hát này.

Xin nói thêm tí về danh lợi , sẽ bàn tiếp “cỏ” sau. Nghe hai từ này, thông thường ta hay nghĩ đến sự thăng quan tiến chức, bổng cao lộc lớn, chức trọng quyền cao Nhưng trong thực tế, nếu quay ngược nhìn kỹ lại mình, sẽ cảm được ý nghĩa rộng gần hơn của câu này, cũng dành cho mọi chúng ta. Danh là tiếng thơm, tiếng tốt, ai chẳng thích được khen. Lợi liên quan đến tiền, ai chẳng muốn mình có tiền, càng nhiều càng tốt, lòng ham muốn chẳng bao giờ khiêm tốn cả. Và như thế, cứ đi loanh quanh, cứ chạy vòng vòng, miệt mài đuổi bắt, khó dừng nên không mệt mỏi, không tiều tụy mới là chuyện đáng ngạc nhiên.

Trong triết lý Phật Giáo, vòng luân hồi sanh tử được giải thích bằng Thập Nhị Nhân Duyên, một “đường vòng” mà trong đó chúng sanh vẫn “chạy”, chạy tới chạy lui, chạy lên chạy xuống. Vòng này khởi đầu bằng Vô Minh, sau đó là Hành, Thức, Lục Nhập, Xúc, Thọ, Ái, v.v.. Bởi Vô Minh nên bị Tham Sân Si dẫn dắt, lăn trôi, chìm đắm mãi giữa “tiều tụy” của khổ đau.

Theo ý này thì chắc không “quá đáng” khi hát “chế” hai câu đầu: “Bao nhiêu kiếp rồi còn mãi ra đi Lăn trôi loanh quanh luân hồi mỏi mệt”.

Và muốn thoát ra khỏi “đường vòng” này cần phải thấy được Minh, ánh sáng của “đôi vầng nhật nguyệt” (Trong tiếng Hán, khi ghép Nhật và Nguyệt sẽ thành Minh).

7.

Một bờ cỏ non một bờ mộng mị ngày qua.

“Cỏ” cũng là một từ đẹp trong vườn Trịnh, chỉ phận người như “Ta thấy em trong tiền kiếp như cọng buồn cỏ khô” (Rừng xưa đã khép), “Sống chết mong manh như thân cỏ hèn mọc đầy núi non” (Giọt lệ thiên thu). Ý này cũng có trong Kinh Thánh: “Đời sống con người chẳng qua như cỏ, như bông hoa nở giữa cánh đồng, một cơn gió thoảng đủ làm nó mất đi, nơi nó mọc sẽ không còn mang vết tích”.
 Nhưng trong Một Cõi Đi Về, ý nghĩa của “cỏ non” chỉ “cám dỗ của thế gian” nếu nói theo Ki-tô, hay “quyến rũ của dục lạc” nếu nói theo Phật thì hợp lý hơn vì nó giải thích được lý do tại sao lại “đi quanh, chạy vòng” để phải bị đuối.

Cám dỗ gì? Quyến rũ gì? Mắt đi tìm hình ảnh đẹp, tai đi tìm tiếng hay, mũi đi tìm mùi thơm, lưỡi đi tìm vị ngon, thân đi tìm sự xúc chạm êm ái, ý đi tìm suy tưởng mới. Mà phải “non”, “tươi”, “lạ” mới thỏa mãn hài lòng. Có bao nhiêu người hiểu được rằng đây chỉ là “mộng mị” phù du ? Ngày hôm qua đẹp, hay, thơm, ngon, mới lạ, êm ái biết bao, sao hôm nay tất cả bay đâu mất rồi. Lại khát nữa, lại đi tiếp, laị chạy tiếp. Và như thế, ngày qua… ngày qua…

Còn “bờ”, hãy nghe lại câu nói của Trịnh.

"Bờ bến của một cuộc tình cũng không phải hẹp đâu. Có biết bao nhiêu kẻ đã bị dìm chết giữa giòng để mãi mãi không đến được bờ bên kia. Kẻ đã đến được bờ bên kia rồi, khi quay nhìn lại sẽ thấy rất rõ, sẽ nhận thức được mọi thất vọng, khổ đau đã qua đều là giả tạo, phù phiếm. Và bỗng nhiên một nụ cười thanh thản bỗng nở ra. Một khi đã qua được bờ bên kia rồi tất cả sẽ thấy lòng mình tràn ngập một nỗi hân hoan lạ thường và từ đó cái nguồn cội của khổ đau không còn lừa gạt ta được nữa..." 

Câu này ý tứ sâu, không đi vào ở đây, trích dẫn để hình dung rõ hơn triết lý Phật về bờ mê, bến giác đã ảnh hưởng thế nào đến tư tưởng của Trịnh thôi. Như vậy, là có bờ bên này và bờ bên kia. Bến bờ này cũng có mặt trong nhiều câu hát: “Như bờ xa nước cạn đã chìm vào cơn mưa” (Tình nhớ) hay “Bờ xa cỏ dại vô thường nhớ em” (Em đi bỏ lại con đường)…Bờ xa bên kia thì không mộng mị như bờ gần bên này, bờ bên kia là bờ giác, bờ bên này là bờ mê. Bờ bên này cỏ non nhiều nên giả tạo, phù phiếm, bờ bên kia chỉ có nụ cười thanh thản và nỗi hân hoan.

8.

Từng lời tà dương là lời mộ địa    
Từng lời bể sông nghe ra từ độ suối khe.

Hai câu này là một ý với “Dưới vành nôi mọc từng nấm mộ” (Cỏ xót xa đưa) hay rõ hơn là “Cụm rừng nào lá xác xơ cây, từ vực sâu nghe lời mời đã dậy, ôi cát bụi phận này ,vết mực nào xóa bỏ không hay” (Cát bụi). Đây là lời cảnh báo của vị thiên sứ hầu như chẳng ai muốn nghe dù trước sau cũng phải đối diện : Thần Chết.

Tà dương là ánh mặt trời sắp lặn, mộ địa là nấm mồ. Tà dương mộ địa, từ Hán Việt, dùng trong câu này quả rất hay, Ông là người yêu ca dao, yêu tiếng Việt, chúng ta khi nghe Trịnh đều yêu thêm tiếng nước mình. Thỉnh thoảng trong túi có móc ra vài từ không thuần Việt nhưng đặt chữ nào xuống là đắc chữ đó, như “tiến thoái lưỡng man”. Không phải làm khó người nghe mà chỉ với ý làm tăng thêm độ sâu của bài hát.

Nếu “nắng vàng” xuất hiện lung linh buồn, thanh thoát nhẹ thì  “tà dương” gợi lên một không gian cổ điển u trầm, làm ta không thể không nhớ đến “Trải bao thỏ lặn ác tà” và “Bóng tà như giục cơn buồn” của Nguyễn Du, “Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà” của Bà Huyện Thanh Quan, hay độc đáo linh động của Tản Đà với "Cỏ vàng cây đỏ bóng tà tà dương". Lời tà dương của Trịnh nặng trầm hơn vì bên cạnh là âm hưởng lạnh lạnh của mộ địa.

“Từng lời bể sông nghe ra từ độ suối khe”? Lại gặp lại dòng sông, lần này tiếng hát của sông vang vọng lên, một bên là biển, một bên suối khe, đây là hình ảnh “Những dòng sông nối đôi tay liền với biển khơi” trong Bốn Mùa Thay Lá. Từ nơi bắt đầu của một dòng chảy đầu nguồn là khe, hòa vào suối, nhập vào sông, cuối cùng ra biển cả. Một sự khởi đầu của “vành nôi” chào đời và kết thúc của “nấm mộ” ngủ yên.

Nếu ví đời người như một cuốn sách 36.000 trang, mỗi trang được lật qua là thêm một trang tiến gần về chương cuối. Cũng vậy, mỗi lần hoàng hôn rơi….

9.

Lời nào của cây, lời nào cỏ lạ    
Một chiều ngồi say một đời thật nhẹ, ngày qua.
Vừa tàn mùa xuân, rồi tàn mùa hạ   
Một ngày đầu thu nghe chân ngựa về chốn xa.

“Cây” là cây của sự sống (tree of life) như đã từng gặp trong Cỏ Xót Xa Đưa: “Trên đời người trổ nhánh hoang vu, trên ngày đi mọc cành lá mù”. Cây mang tính gốc rễ vững chắc, từ đó cành, nhánh, lá vươn ra. Cành, nhánh có thể là những liên hệ bên ngoài của ta trong cuộc đời, cũng có thể là suy nghĩ, cảm xúc bên trong nội tâm.

Nhưng nếu theo ý này thì không chặt lắm khi “cây” đi cùng với “cỏ lạ”. Cỏ lạ chỉ “lạc thú trần gian” khi ta đi loanh quanh, chạy vòng quanh như đã nói trong bài trước thì “cây” phải mang nghĩa ngược lại thì ý mới sống động. Theo hướng tâm linh này thì cây giác ngộ (tree of enlightenment) hợp lý hơn vì bản thân cây này cũng đã hàm chứa ý nghĩa “đôi vầng nhật nguyệt” trong sáng, có hoan lạc, bình an thật sự, chứ không giả tạm, nhất thời như “lạc thú” của “cỏ lạ” hời hợt, chóng tàn.

“Một chiều ngồi say” là một cách nói khác của “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui”, say vì yêu bông hoa, nụ cười, yêu nắng đầy, mưa tới … (chắc là cũng có rượu). Yêu ngất ngây nhẹ nhàng tất nhiên sẽ hưởng được nguồn vui của “một đời thật nhẹ”, cứ “ngồi thong dong trao đến mọi loài chút tình tôi”.
Thời gian trôi, tháng ngày trôi, mặt trời lên rồi xuống, nắng đến rồi phai, tàn xuân, tàn hạ. Rồi sẽ đến khúc cuối đời, nghe tiếng lộc cộc chậm buồn tiếng chân ngựa về để đón đưa. Một lần nữa hình ảnh “ngựa” lại xuất hiện, không xa vắng như “nhớ ngựa thồ ngoại ô xa vắng” trong Em Còn Nhớ Hay Em Đã Quên, không say buồn như “Một ngày như mọi ngày, giọng buồn lên tiếp nối, một ngày như mọi ngày, xe ngựa về ngủ say” trong Một Ngày Như Mọi Ngày.

“Chân ngựa về chốn xa” là văng vẳng tiếng của chuyến xe thổ mộ đưa quan tài về đất trả lại cho cát bụi. Thổ là đất, mộ là mồ, thổ mộ là nấm mồ đất. Mộ địa âm buồn bên ánh tà dương.

10.

Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt 
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về

Một lần nữa, hãy đọc lại những tâm sự Trịnh đã để lại “Có những ngày tháng tôi đã bỏ mình vào một cõi tịch lặng vô ngôn để thử nhìn lại rõ mình hơn, nhưng vô vọng”. Ông đã thao thức nhiều trên con đường tìm lại “bản chất chân thực” (real nature) của mình. Đó cũng là thao thức chung cho những ai muốn thoát khỏi cảnh phù du, tạm bợ của hạn hẹp nhân gian.

Ông biết rằng có một cái gì cao cả hơn, an bình hơn nằm sâu bên dưới tâm thức bình thường, tĩnh lặng tựa đáy đai dương bao la: “Và tôi đã tìm đến với thế giới của im lặng và hội họa. Ở đây, tôi đã bắt gặp một mảng đời của mình bấy lâu nay vẫn còn bị che dấu. Chính ở trong cõi màu sắc này, tôi đã chạm vào được cái chìa khóa để mở dần những cánh cửa vô thức của bản thân mình.”

 “Mảng đời của mình vẫn còn bị che dấu” được gọi là “một cõi đi về” mà ông đang khát khao tìm kiếm. Chạm được “chìa khóa”, thấp thoáng “cánh cửa” nhưng chiều sâu “vô thức của bản thân” thì “bó tay”, “vô vọng”. Cánh cửa “vô lượng, vô biên” hé chút chợt sầm đóng lại, rồi lại tiếp tục tới lui với đôi cánh là đà bay lượn giữa đời lênh đênh.

Dù vậy, ông vẫn tự nhủ “Hãy biết đi tìm, nhẫn nhục tìm kiếm sẽ có ngày thấy được. Dù ở đâu. Từ trong một hạt bụi đến cõi trời bao la. Từ cái sờ mó được đến cõi vô hình”. Nghe câu này, chúng ta không thể không nhớ một câu trong Kinh Thánh “hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho” (Matthew 7:7).

Phải chăng “cõi đi về” mà Trịnh muốn tìm, muốn hỏi, muốn gõ ấy chính là “cõi trời bao la” và “cõi vô hình” như ông đã nói? Những tự sự sâu kín “tự mình biết riêng mình Và ta biết riêng ta” ám ảnh Trịnh suốt một đời về “nguồn cội”. Những “giọt lệ long lanh” cùng “nụ cười đắng ngọt” đã làm rung động chúng ta qua những câu chữ, nét nhạc. Lúc bay bổng vui tươi. Lúc trầm lắng sâu buồn.

Nghìn dâu cố quận muôn trùng nhớ em 
(Em đi bỏ lại con đường)
Rồi một lần kia khăn gói đi xa 
Tưởng rằng được quên thương nhớ nơi quê nhà
(Bên đời hiu quạnh)

Tấm lòng hướng về “vầng nhật nguyệt” mà đôi khi được gọi là  “bờ xa” cũng lung linh trong nhiều tình khúc: “Ôi áo xưa lồng lộng, đã xô dạt trời chiều, như bờ xa nước cạn, đã chìm vào cơn mưa” (Tình nhớ). Chúng ta cũng hình dung thấy “bờ xa bên kia” đôi khi nhạt mờ khuất bóng. Sương khói cuộc đời không thể đưa ông qua bờ với nước cạn lòng sông.

oOo


Thứ Bảy, 19 tháng 12, 2015

GIÓ ĐỜI HƯƠNG ĐẠO_LỜI NÓI ĐÂU


GIÓ ĐỜI HƯƠNG ĐẠO
Chiều kích tâm linh trong nhạc Trịnh Công Sơn



https://www.youtube.com/watch?v=PEsNodvKGeE&feature=youtu.be

Mục lục

Lời nói đầu   
Một Cõi Đi Về  
Đóa Hoa Vô Thường   
Em hồn nhiên rồi em sẽ bình minh   
Lặng lẽ Nơi Này   
Nỗi Buồn Xin Lỗi Bàn Tay    
Phôi Pha   
Ru Ta Ngậm Ngùi   
Em hãy ngủ đi    
Ru Tình   
Môi Hồng Đào   
Phụ Lục  


LỜI NÓI ĐẦU

Trên bầu trời âm nhạc Việt Nam, Trịnh Công Sơn đã, đang và chắc chắn sẽ là một ngôi sao sáng mãi. Những bài hát bất tử về “quê hương, tình yêu và thân phận” của “người hát rong qua nhiều thế hệ” này vẫn mãi là nguồn cảm hứng bất tận cho những tâm hồn yêu thích chiều sâu triết lý nhân sinh, muốn tìm được ý nghĩa và mục đích sống đích thực.

Khi nói đến “quê hương”, ngoài tiếng khóc, tiếng cười dành cho sự trầm thăng của đất nước, chúng ta còn thấy một “quê quán”, “quê nhà” rất lạ nơi nhạc của ông. Về “tình yêu” cũng vậy, dễ hiểu, dễ cảm như “tình yêu như trái phá, con tim mù lòa” nhưng cũng rất độc đáo với những câu hát lạ như “ ru em là cánh nhạn miệng ngọt hạt từ tâm” hay “yêu em yêu thêm tình phụ, yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ”, v.v.. Về “thân phận”, nếu là “hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi” thì không có gì phức tạp, nhưng “ôi cát bụi tuyệt vời mặt trời soi một kiếp rong chơi” hay “trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt, rọi suốt trăm năm một cõi đi về” thì quả tình không đơn giản. Phải chăng những điều lạ kỳ “không giống ai” này chính là nỗi niềm riêng suốt một đời trăn trở trong trái tim của Trịnh? Vẫn tự tại ung dung khi “thanh thản trong sự cô đơn của chính mình”, nhưng đồng thời cũng đầy khắc khoải trên bước độc hành, khoác trên vai “một điều giấu kín”. 


Điều giấu kín là điều gì? Tại sao phải giấu kín? Có giấu kín hoàn toàn không? Có thể nói dù Nhạc sĩ muốn giấu nhưng đồng thời cũng muốn mở, chúng ta vẫn có thể cảm nhận rất rõ phần nào tâm sự đó khi nương theo một số “đầu mối” nơi ca từ, cùng tùy bút đã để lại của ông . Từ đó, “bí mật” đã được “bật mí” một phần. Tập sách này được soạn như một cố gắng nhỏ đi vào những đầu mối như vậy.


Những ai thực sự hiểu về đạo, về thiền đều biết rằng có sự khác biệt rất lớn giữa tâm linh và tôn giáo. Tôn giáo (religion) là hệ thống tín ngưỡng, kinh điển, nghi thức; Còn tâm linh (spirituality) là tìm về với bản thể chân thật (true self, real nature), với Phật tánh (Buddha-nature) hay bản chất Thượng đế (God-nature) vốn có sẵn trong mỗi người chúng ta. “Phật tại tâm” (Buddha at mind) hay “Chúa ở cùng chúng ta” (God be with you) là những câu rất quen thuộc nói đến điều này.


 Bản thể chân thật của Tâm, tùy theo truyền thống, được gọi theo nhiều cách: Tâm vũ trụ (cosmic mind, universal mind), Tâm bầu trời, Tâm đại dương (Mind is like vast sky or vast ocean)  v.v…Riêng trong Phật giáo, Chân Tâm hay Minh Tâm (real mind) thường nghe như “Trực chỉ chân tâm”, “Minh tâm kiến tánh”, là thuật ngữ của truyền thống phương Bắc (Bắc tông), Tâm Chói Sáng (luminous mind) là cách nói theo truyền thống phương Nam (Nam tông) như trong đoạn kinh sau đây: “Tâm này là sáng chói. Và tâm này bị ô nhiễm bởi các cấu uế từ ngoài vào. Kẻ phàm phu ít nghe, không như thật rõ biết tâm ấy, nên không tu tập tâm ấy. Tâm này là sáng chói. Và tâm này được gột sạch các cấu uế từ ngoài vào. Bậc có trí nghe nhiều, như thật rõ biết tâm ấy, nên có tu tập tâm ấy.” Như vậy, “Minh tâm kiến tánh” hay “Tâm chói sáng thì thấy được thực tướng của các pháp” đều cùng một ý nghĩa, không khác nhau!


Và muốn “biết và thấy” được bản chất thanh lương, thuần khiết này, phải tìm hiểu kinh sách một cách thông minh từ những lời dạy của thánh nhân xưa đã trao truyền lại, phải sáng suốt phân biệt đâu là “ngón tay” qui ước của ngôn từ, đâu là “vầng trăng” vô tướng, vô ngôn. Mục đích chính của mọi truyền thống chân chính gặp nhau ở điểm này: hướng về một thực tại tuyệt đối duy nhất, sự rỗng không của vạn pháp. Nói theo cách của Trịnh là “tìm thấy được mình ở vẻ nguyên vẹn của nó”.


Trịnh Công Sơn là một người có kiến thức rộng về tôn giáo. Trong di sản ca khúc của mình, những ca từ như Chúa, thiên đường, địa đàng, giáo đường v.v…thuộc Ki-tô giáo và chân như, vô vi v.v… thuộc Phật giáo đều cùng nhau xuất hiện song song. Theo người viết hiểu thì “vẻ nguyên vẹn” vừa đề cập đến ở trên, khi đi vào âm nhạc, đã trở thành “môi thiên đường”, “vườn địa đàng” hay “trăng vô vi”, “vầng nhật nguyệt”, “cõi đi về” mà chúng ta thường nghe tới. 


Nếu tôn giáo là cây cầu để khai mở tâm linh, thì Phật giáo chính là một cây cầu đẹp nhất và quen thuộc nhất với Trịnh: “Tôi đang cố gắng quên Phật giáo như một tôn giáo. Tôi muốn đó là một thứ triết học siêu thoát mà ai cũng cần phải học, ngay cả những người thuộc tôn giáo khác. Mỗi người phải nỗ lực để xây dựng cho bằng được một ngôi chùa tĩnh lặng trong lòng mình và nuôi lớn Phật tính trong chính bản thân thành một tượng đài vững chắc. Nó sẽ giúp cho ta nhìn thế giới khác đi, nhìn cuộc sống khác đi. Với tôi, Phật giáo là một triết học làm cho ta yêu đời hơn chứ không phải làm cho ta lãng quên cuộc sống.”


Phải chăng “ngôi chùa tĩnh lặng” và “tượng đài vững chắc” đó chính là “quê hương” “một cõi đi về” của Ông? Chắc là thế, vì có lần Trịnh đã trả lời một cuộc phỏng vấn: “Tôi không quan niệm tìm đến với Phật mà là trở về với Phật tính trong cõi riêng mình. Ðó là quê hương, là chiếc ngai Phật.” Như vậy, không khó để giải đáp cho câu hỏi “Phải chăng trở về với Phật tính vốn yên lặng, rỗng không cũng chính là hoài bão một đời của Trịnh?”.


Dù lòng thương luyến cuộc đời náo động có khi làm ông không được lắng yên, nhiều lúc phải buông tiếng thở than “một cõi bao la ta về ngậm ngùi” hay “ta nghe tịch lặng rơi nhanh dưới khe im lìm”. Nhưng là một thiền nhân, Ông cũng biết rằng “phục bổn hoàn nguyên”, về lại cội nguồn là một cuộc hành trình dài, không thể “đến bờ kia” chỉ trong một kiếp sống. 


Hãy cùng nghe thêm lời Trịnh về chiều kích vô lượng của tĩnh lặng và vô biên của không gian: "Có kẻ đứng trước bao la mà không thấy được bao la. Có kẻ ở buổi bình minh, nghe tiếng chim hót đã chạm mặt với cõi vô lượng. Biết được vô lượng là cùng lúc đến với vô biên. Cái vô biên nằm đâu đó trên cánh vạc chở hoàng hôn về núi mỗi chiều."  Câu này Ông đã viết trong tùy bút Mở Theo Lời Điệu là những thông điệp thật thâm thúy, chỉ một người hiểu được cốt tủy của Đạo mới có thể nói được. 


Đạo vốn bao la. “Vũ trụ lớn” bên ngoài được bao trùm bởi không gian và tĩnh lặng, cũng không khác gì với “vũ trụ nhỏ” bên trong thân tâm mỗi con người, vốn tĩnh lặng và trống rỗng như hư không. Ngoài sao trong vậy! Trịnh là người có nhiều kinh nghiệm sâu sắc trên con đường khám phá vũ trụ nhỏ vô lượng, vô biên của riêng mình, như Ông đã từng hát “Tôi đang lắng nghe im lặng đời mình Tôi đang lắng nghe im lặng của tôi”. 


Im lặng hay Tĩnh lặng là tính chất của Đạo. Đạo là gì? Tính chất của Đạo ra sao? Làm sao để thấy được Đạo?. Những vấn đề này sẽ được giải bày dọc theo phần nội dung của sách.


Trên đường trở về với Phật tính, không thể không đề cập đến phút giây hiện tại, là cốt lõi mà mọi phương pháp thiền tập đều nhắm tới. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là người đọc nhiều, từng say mê với thuyết hiện sinh của triết học Tây phương nhưng cuối cùng đã nói: “Bậc thượng thừa của hiện sinh chính là ông Phật. Tại vì Phật dạy ta phải thức tỉnh trong từng sát na của cuộc sống”. Phật khi xưa đã từng nói về sự kỳ diệu của phút giây hiện tại như thế nào mà Trịnh xem Phật như là “bậc thượng thừa của hiện sinh”?.  Câu Phật ngôn nổi tiếng sau đây có thể trả lời cho câu hỏi này: "Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng, Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến, Chỉ có pháp hiện tại,  Tuệ quán chính là đây". 


Nhưng “cuộc hành trình về quê” có những khó khăn, trắc trở gì mà không ít lần Trịnh đã thốt tiếng thở than: “Đời tôi ngốc dại tự làm khô héo tôi đây” hay “như là chim xa đàn, giấu nỗi buồn trong cánh” .v..v…? Có phải “tám ngọn gió đời” đôi khi làm cánh chim kia “cuồng phong cánh mỏi”, hương đạo “vàng phai”?.


Gió Đời Hương Đạo chỉ là những dòng tản văn theo cảm hứng nên khó tránh khỏi chuyện lan man, lỏng lẻo. Bên cạnh đó, cũng mong được người đọc lượng thứ luôn cho việc không chú thích, dẫn nguồn thường thấy trong các khảo luận, nghiên cứu.


Dù sức hiểu và sức cảm vẫn chưa sâu, nhưng để bày tỏ tình cảm và lòng tri ân dành cho một nhân tài Việt, người viết xin được mạo muội trình bày những kiến giải chủ quan của mình về ca từ và ý tứ trong một số ca khúc đẹp, sâu và lạ của Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. 

Kính mong nhận được sự đồng cảm, khích lệ và góp ý chân thành từ bạn đọc gần xa yêu quý dòng nhạc Trịnh. 

Kính bút,

Cuối 2015
Minh Tuệ Đỗ Minh